Note: Trong nỗ lực tìm ảnh về Royal City, tôi nhận ra Vingroup dường như đã chi tiền cho Google để hạn chế các thông tin ít tích cực về dự án này. Tuy nhiên, với facebook và các mạng xã hội khác, tôi hi vọng sẽ nhìn thấy sự “dân chủ” hơn đối với bình dân và người tiêu dùng. Mới khai trương không được bao lâu, khu liên hợp trung tâm thương mại – nhà ở mới nhất của tập đoàn VinGroup đã thu hút vô số lượt khách tới tham quan. Với những chiến dịch tiền khai trương rầm rộ, với đèn neon chăng khắp phố, và chủ yếu là bởi kích cỡ khổng lồ đặt gần như sát cạnh dòng sông Tô Lịch, có thể nói cuộc khai trương này là một sự khởi đầu thu hút được công dân thủ đô. Độ bền vững của lượng khách tới Megamall này, dù nhiều người dự đoán sẽ bớt hẳn đi khi người dân đã thoả xong trí tò mò và mãn xong phần chụp ảnh check in, là điều tôi sẽ không bàn tới trong bài viết này. Tuy nhiên, xin được nói đến một khía cạnh khác của vấn đề bền vững, đó là khía cạnh chất lượng đời sống dân sinh. Dù tiếp cận Royal City Megamall từ hướng nào, đường Láng rẽ phải, Trường Chinh rẽ trái hay từ trục đường thẳng Tây Sơn – Nguyễn Trãi, người ta đều có thể nhìn thấy sự đối lập tương phản nặng nề giữa khu nhà mới xây và những mái nhà lụp xụp, những khu chợ tạm ướt mồ hôi bên dưới, những nếp nhà mái tôn xếp dọc bên sông, … Nguyên khu đất xây dựng Royal City trước đây là nhà máy công cụ số 1. Sau tái quy hoạch, thành phố được mở rộng, khu vực Ngã Tư Sở trở vào Thanh Xuân vốn trước đây được coi là vùng giáp ranh đã trở thành một khu vực quan trọng của thủ đô. Nhà máy dần dần được rời đi, dù vẫn còn ba cái tên lẫy lừng Cao – Xà – Lá là còn ở lại. Khu công nghiệp được chuyển đổi thành khu dân cư và trường đại học. Thay vì xây một không gian xanh để bù đắp cho người dân những lượng khí thải mà bao năm họ phải hít vào buồng phổi, thành phố quyết định phê duyệt một dự án nhà ở – thương mại cao cấp tên Tây “Royal City” – “Thành phố Hoàng Gia”. Thành phố Hoàng Gia có hai phần, một là nhà ở, hai là trung tâm thương mại – giải trí. Xét về nhu cầu nhà ở, một sự thật đang tồn tại hiển hiện ở Hà Nội hiện nay là thị trường bất động sản đang tiếp tục đóng băng cung nhiều hơn cầu và nhà đất mang tính đầu cơ người mua không ở, người cần ở chẳng đủ tiền mua. Khi ngay gần đó Keangnam vẫn còn có tương đối nhiều căn hộ chẳng bao giờ sáng đèn, chúng ta có quyền nghi ngờ những sản phẩm nhà ở này xây lên có thực sự cần thiết hay không? Xét về nhu cầu mua sắm, Royal city không xa là Pico Mall cũng mới mọc lên cách đây vài năm phục vụ nhu cầu của một số lượng người dân có mức thu nhập trung bình khá vào tiêu thụ các mặt hàng có nguồn gốc Âu, Mỹ, Á, tóm lại là các nước phát triển đang dồn mũi nhọn tiêu dùng sang các quốc gia kém phát triển hơn. Trung tâm thương mại của Vincom tất nhiên to lớn và sang trọng hơn, nhưng rồi có phải sẽ lại kéo người dân nước ta vào cái vòng luẩn quẩn của chủ nghĩa tiêu dùng mà phương Tây đã / đang / sẽ kịch liệt chỉ trích? Xét về nhu cầu giải trí, điều này tất nhiên tối quan trọng. Một thành phố có chỉ số ‘hạnh phúc’ lớn như Hà Nội làm sao có thể thiếu yếu tố này trong đời sống. Ngoài rạp chiếu phim giống như Pico Mall, Megamall còn có công viên nước, có các khu ẩm thực từ nhiều vùng miền. Tất nhiên, Megamall không quên có KFC, Burger King, có trà sữa trân châu Trung Quốc, mà có thể không xa nữa lại có thêm thức ăn nhanh thương hiệu McDonald’s – “ước mơ cả đời” của Henry Nguyễn, chủ tịch quỹ đầu tư mạo hiểm IDG, cũng là con rể Thủ tướng… Tuy nhiên, khi giải trí đại chúng được coi nặng là lúc văn hoá bị bỏ quên. Hầu hết các dịch vụ giải trí ở đây đều mang tính tức thời, và hợp với thị hiếu trung bình thấp (trò chơi điện tử, tô tượng, công viên nước, …). Hiếm thấy hiệu sách, và chẳng thấy quãng nghỉ nào đặt lấy được một hai điêu khắc nghệ thuật cho xứng tầm với cái tên “royal” – hoàng gia. Một nguyên tắc trong cuộc sống mà có lẽ ít ai phản đối là nếu không thể làm cho nó tốt hơn lên, thì ít nhất cố gắng đừng làm nó xấu thêm đi nữa. Nhiều người sẽ thích vẻ tráng lệ Royal City trong tổng thể khu dân cư bên sông Tô Lịch và chợ Ngã Tư Sở, một vẻ tráng lệ chủ yếu do bật nhiều nhiều đèn – tiêu tốn nhiều nhiều năng lượng trong khi những vùng được vẽ ranh giới là thuộc thủ đô còn chưa được thắp sáng. Còn tôi, tôi nhìn thấy ở đó sự đảo lộn nhịp sinh hoạt của người dân xung quanh, thậm chí là của cả tuyến đường Nguyễn Trãi, của sinh viên và cán bộ công nhân viên trường ĐH KHXH&NV, ĐH Hà Nội, … Tôi nhìn thấy một không gian đô thị bị băm xẻ nát nhừ thiểu năng tính cách. Một khu đô thị cao tầng được xây dựng trong khi cơ sở hạ tầng thậm chí còn chưa tải nổi lượng dân cư cũ. Một tuyến đường vành đai vốn vẫn hay ùn ứ mỗi khi đến giờ cao điểm nay lại phải tải thêm hàng trăm nghìn lượt khách tới tham quan Thành phố Hoàng Gia mỗi ngày. Và Thành phố Hoàng Gia thì thậm chí thiết kế còn chưa ổn thoả, ô tô xe máy người đi bộ cùng ngay dồn ứ lại từ hầm để xe cho tới tận khi lên tới đường nội bộ ra ngoài phố. Đó là ở thời điểm hiện tại (08/2013), khi các cư dân mới nơi đây vẫn chưa chuyển về sinh sống, bởi họ vẫn còn đang kiện tụng tranh cãi với chủ đầu tư về những sai phạm hợp đồng ở www.cudanroyalcity.com. Tôi đang tưởng tượng, một vài năm nữa, khi con đường này quá tải, khi thành phố này quá tải, khi bầu không khí này vốn đã thiếu oxygen nay lại càng ngột ngạt thêm …
Cuốn sách Hanging Man: The Arrest of Ai Wei Wei dự kiến sẽ được xuất bản vào ngày 17/9/2013, tuy nhiên đã thấy xuất hiện sớm trên một vài hiệu sách lớn. Cuốn sách được nhiều nhà phê bình cho là tài liệu bằng tiếng Anh đầy đủ nhất về những gì đang xảy ra đối với các tù nhân chính trị Trung Quốc. Trên tờ Literary Review của Anh, Johathan Mirsky mô tả nó như một “tài liệu khủng khiếp và sẽ làm cho những kẻ biện hộ cho CHDCND Trung Hoa như Martin Jacques, tác giả cuốn Khi Trung Quốc Điều khiển Thế giới (When China Rules the World), phải nghĩ lại. Theo tờ The Guardian, Hanging Man… là một bán tiểu sử về Ngải Vị Vị, đặc biệt tập trung vào 81 ngày nghệ sỹ này nằm trong song sắt của chính quyền Trung Quốc, qua đó gián tiếp phê phán “một xã hội đang đi vào hồi khủng hoảng”. Thoạt nhìn cuốn sách, không khỏi có cảm giác nó như một bước đi có tính toán của nghệ sỹ họ Ngải này, ít ra thì ông đã rất nhiệt tình trong việc giúp đỡ thực hiện nó và chắc là phải mong ngóng ngày nó được xuất bản lắm. Trích lời Vị Vị nói với tác giả, trong cuốn sách có đoạn: “Anh phải ghi lại câu chuyện này ngay để lưu trữ bởi vì chẳng mấy chốc tôi sẽ quên luôn. Tôi nhận ra rằng nó sẽ trở thành một tài liệu cực kỳ quan trọng, thể hiện được bối cảnh cơ bản của đất nước này, của thể chế này và của cái cách ứng xử và suy nghĩ này”. Trang bìa của sách cũng được ghi chú là do Vị Vị cùng Wang Wo (ai biết phiên âm xin dịch giúp) thiết kế. Còn trong bìa phụ cuốn sách, nhà xuất bản viết: “Ngay sau khi Ngải Vị Vị được thả, Barnaby Martin đã bay ngay tới Bắc Kinh để phỏng vấn ông về cuộc giam giữ và thu thập được thêm nhiều thông tin về những gì thực sự đang diễn ra nơi hậu trường chính trị của chính đảng Cộng sản Trung Quốc. Dựa trên những cuộc phỏng vấn và mối quan hệ gần gũi với Ngải Vị Vị, Martin đã giúp người đọc khám phá cuộc đời, nghệ thuật và các hoạt động chính trị của người nghệ sỹ, qua đó phác hoạ phần nào nghệ thuật Trung Hoa hiện đại. Đó là một bức tranh giàu chi tiết về một con người cùng môi trường sống của anh ta, về những gì anh ta truyền tải - giao tiếp thông qua các tác phẩm, đồng thời về những hoạt động ngày càng mạnh mẽ của phong trào dân chủ ở Trung Quốc. Đây là một cuốn sách về lòng dũng cảm, về niềm hi vọng ẩn giấu trong một thế giới thiếu vắng tự do và công bình”. Mặc dù nhận được vô số lời tán dương, cuốn sách vẫn nhận được một số lời phê bình. Theo tờ Literary Review (Anh), tác giả Martin đã mắc lỗi khi viết về lịch sử Trung Hoa hiện đại và sử dụng những nguồn tài liệu cũ chưa cập nhâp, khiến một vài lập luận chưa thực sự hoàn hảo. Bỏ qua một hai điều còn gượng gạo ấy, cuốn sách có lẽ có một giá trị nhất định về mặt chính trị cũng như góp phần củng cố vị thế của Ngải Vị Vị. Người ta vẫn nói 81 ngày của Ngải Vị Vị chưa là gì so với 11 năm của bạn ông Lưu Hiểu Ba, người được trao giải Nobel Hoà Bình năm 2010. Tuy nhiên, ngồi tù ít hơn không có nghĩa là lao động ít hơn hay có sức ảnh hưởng nhỏ hơn. Trên một phương diện nào đó, có thể nói, bằng việc xuất bản cuốn sách, tác giả đã biểu tượng hoá người nghệ sỹ này, dùng Ngải Vị Vị làm đại diện cho nhiều người thuộc nhóm trí thức Trung Hoa hiện đại khác đã, đang bị cầm tù một cách công khai hoặc bí mật. Xem thêm thảo luận: http://soi.com.vn/?p=116586 Do Thái giáo là một trong những tôn giáo cổ xưa nhất thế giới còn tồn tại cho đến ngày nay. Cộng đồng người Do Thái chỉ chiếm 0.2% dân số thế giới nhưng tên tuổi thì không ai là không biết. Điều gì đã làm cho họ nổi tiếng (và cả tai tiếng?) đến vậy? Triển lãm The Whole Truth (Toàn bộ sự thật) ở Bảo tàng Do Thái Berlin, Đức, câu trả lời đã phần nào được hé lộ. Nhìn chung, việc nhận biết người Do Thái qua chiếc mũ kippah, khẩu phần ăn không thịt lợn, lễ Shabbat cuối tuần là những điều dễ dàng đọc được ở nhiều nguồn tài liệu mở online. Tuy nhiên, điều thú vị của triển lãm này là sự đối thoại của khách tham quan về vấn đề Do Thái. Trong không gian trưng bày, bảo tàng dựng một bức tường bê tông khá rộng, cùng giấy nhớ hồng và bút để mọi người ghi lại những câu hỏi mà mình còn thấy băn khoăn thắc mắc về người Do Thái cùng tôn giáo của họ. Bởi bảo tàng Do Thái được cho là tiếng nói của chính dân tộc này nói về mình, những ý kiến của khách tham quan đó đặc biệt có giá trị cân bằng tính khách quan đa chiều. Trong số đó, có những câu hỏi mang tính chất tôn thờ dân tộc Do Thái. Cũng có những mẩu giấy ghi lời cảm thán chung chung về cuộc thảm sát của Hitler. Cá biệt và thú vị hơn, là những sự phản biện, thắc mắc mang màu sắc phê phán và tranh luận, thậm chí phản biện cực đoan: “Vì sao người thổ dân bản địa ở Mỹ lại ít được chú ý quan tâm hơn dù số phận cũng có nét tương đồng?” “Vì sao dân Do Thái lại yêu tiền thế?” “Nếu không có Hitler và chiến tranh thế giới thứ 2, chưa chắc dân tộc Do Thái đã nổi tiếng như bây giờ. Suy cho cùng, họ cũng chỉ là một dân tộc thiểu số”. … Ngoài ra, trong triển lãm còn có một trắc nghiệm nhỏ khá thú vị (ảnh trên). Người ta đặt năm chiếc tủ kính đặt cạnh nhau đại diện cho 5 đáp án cho câu hỏi Bạn có nghĩ người Do thái: 1. Thông thạo làm ăn 2. Yêu động vật 3. Có tầm ảnh hưởng 4. Thông minh 5. Đẹp Khách tham quan sẽ nhặt các đồng xu trong một chiếc hộp và thả vào câu trả lời nào mình thấy phù hợp. Kết quả là, đại đa số nghĩ người Do Thái thông minh và thông thạo làm ăn, những đặc điểm còn lại nhận được ít câu trả lời tán đồng hơn. Đặc điểm yêu động vật nghe có vẻ hơi không liên quan khi đưa ra làm thước đo cho cả một dân tộc. Tuy nhiên, với không gian triển lãm đặt ở nước Đức, một xã hội đặt chó ở vị trí ưu tiên cao nhất, trên cả phụ nữ, người già – trẻ em và đàn ông cuối cùng, điều này thực ra lại vô cùng hợp lý. Dưới đây là một số hình ảnh của triển lãm. Recently a group of postgraduate students from Goldsmiths College (University of London) where I am enrolling my MA programme just came up with a brilliant idea which was transforming their personal space in school dorm into open exhibition space. The exhibition was entitled Flat 34 representing the location of the space: Flat 34, Ewen Henderson Court Hall, Goldsmiths College. In a platform of approximately 90 square meter, there were 5 single bedrooms, a small technical room and a pretty large common kitchen. The displayed included 12 art works of photography, visual art, documentary, composition and multi-media interaction.
Among those 12, the one that impressed me the most is the video piece shown on a 15in laptop screen in the dark technical room containing only some plastic pipes and a broom. It was a silent piece, I meant there were some noise from camera practicing but the character didn’t say a word. On the screen, a young woman sat by her washing machine. Once in a while she kept sitting in tranquillity with some dead fishes on the floor. Next scenes, she was dragging some sand-like material on the floor and pretend to swim (or in fact she did in real). Later on, she was leaning on the washing machine again, the room was getting darker and darker then totally black. Suddenly, we saw a round light turned on. It was spreading around from the round door of the washing machine… My purpose is not commenting on the artwork, because whether they are loved or not, I still think this is a brilliant way of organizing an exhibition. I like it. I like it because of two reasons. First, it provide the art students a platform to work with, for their individualism, for their ego, for art without any commercial motivation. It is pure. Secondly, to me and the visitors, this is an extraordinary experiences, in the sense of both life and art. The students – artirsts were displaying their works in personal bedroom where they were sleeping, writing essays, singing, showering, maybe making love, …, which made us really confused about determining what is supposed to be exhibited, what is not? It’s like Anne, a Dutch girl who is also a participant, said that “There will be a book exhibited on my desk, for example, but I also have books on my shelves – where is the limit?”. Yeah, what is the limit? What is the limit of the artwork, what is the limit of the exhibition space? Moreover, what is the limit of our imagination and conception? Because, I bet whist looking for the displayed objects, we were unconsciously create artworks of our own by embodied our concepts, our creativity in to random items. Is it an amazing way to connect us to the artists, to interact with the exhibition spaces? It was not only me. In several conversations, I found out that many people have the same feeling when entering others’ personal spaces without permission (even if we are permitted to do that in reality, but not like an invitation personally with a hug as usual). I felt like I was an intruder, a pervert who was trying to illegally jump into an innocent girl’s room. In a Western zone where individualism is highly concerned more than any other,it was in deed a serious struggling experience. After a little while, suddenly I totally overcome the feeling of being a ‘pervert’, as being overwhelmed by a new phase of human instinct: CURIOUSITY. Having gone through the displayed objects (mostly not even yet), we would definitely looked around, checked out the owers’ stuff. Their book lists, their notes, even their toilet perhaps,… with unavoidable personal and possibly judgmental reflections on anything. “Không ai là không mơ ước, nhưng không phải ai cũng đủ can đảm để thực hiện ước mơ…” _ trích Lưu bút của Mẹ tôi, PTTH Yên Hoà 1986
Mẹ tôi có một cuốn sổ gồm tập hợp nhiều đoạn lưu bút của những người bạn học chung cấp 3 trường Yên Hoà, kiểu lưu bút của thế hệ những người trẻ tuổi của 25 năm trước, nhiều tình cảm và nói năng luôn gượng nhẹ sợ làm đau nhau. Những năm tiểu học, tôi đọc nó say sưa như đứa trẻ mới vào lớp một mải mê nghiên cứu tập sách giáo khoa đầu tiên của cuộc đời mình. Cho tới giờ, dù đã quên sạch toàn bộ nội dung của nó, tôi vẫn nhớ mãi câu đầu tiên mẹ tôi viết bằng mực xanh pha nhạt trên nền giấy nâu vàng ở ngay trang đầu cuốn sổ: “Không ai là không mơ ước, nhưng không phải ai cũng đủ can đảm để thực hiện ước mơ…” Năm tôi học lớp 5, cô giáo chủ nhiệm của chúng tôi lúc đó có đề nghị cả lớp ghi ra một mẩu giấy về mơ ước của mình. Có hai giấc mơ tôi nhớ nhất năm đó, một là của tôi, một của một cậu bạn cùng lớp tên Trương Đức Bình. Tôi ước mình sẽ trở thành cô giáo. Còn cậu bạn kia nguyên văn ước muốn trở thành “bá chủ thế giới”. Thật tình, chuyện làm cô giáo lúc đó với tôi chỉ là một ý nghĩ bộc phát, tôi không biết mình muốn gì cả, nên viết bừa một phương án an toàn và vô hại. Tính đi tính lại, trong tuổi thơ tôi, chưa bao giờ có một thứ gì gọi là ước mơ. Cho tới nhiều năm sau, tôi vẫn thường xuyên nghĩ về nó. Tuy nhiên, mỗi lần được hỏi, ước mơ của em là gì, tôi chỉ lặng thinh. Ước mơ trở thành “bá chủ thế giới” của cậu bạn tiểu học của tôi hồi đó hoá ra cũng lại có chút nào đấy tương đồng với một trong những người tôi từng yêu. Bởi thế, tôi luôn có cảm giác rằng ước mơ phải là một cái gì đấy thật lớn lao vĩ đại, thậm chí phải có ít nhiều sự xa vời viển vông. Còn tôi, những gì tôi nghĩ trong đầu, những gì tôi muốn làm trong tim đều thật thực tế và nằm trong tầm thực hiện. Suốt gần hai mươi năm đầu đời, tôi nghĩ rằng mình chỉ có mong muốn, không có gì thực sự được gọi là ước mơ. Một cách nôm na, có thể hiểu rằng, suốt tuổi niên thiếu, tôi thường có xu hướng mặc cảm tự ti về ước mơ của mình. Năm 15 tuổi, tôi nghĩ yêu và được yêu là điều tuyệt nhất. Tôi thích có một người yêu thật tuyệt và sẽ cưới người đó làm chồng. Năm 15 tuổi, tôi muốn mình được cưới khi vừa tròn tuổi trăng. Bé gái mới lớn mỗi sáng sẽ dậy thật sớm, nấu nướng làm điểm tâm sáng thiệt ngon, xong xuôi bé đi vào buồng ngủ, thơm bạn chồng dịu dàng vào mắt, nũng nịu gọi anh yêu à mình dậy đi thôi. Đó là ước muốn của tôi tuổi 15, một ước muốn tất nhiên đã không thành sự thật. Năm 17 tuổi, tôi bắt đầu không thích ý nghĩ sẽ lấy chồng. Tôi quyết định mình muốn được ở một mình, sống một cuộc sống phụ nữ thành đạt độc thân. Có thể có tình yêu, nhưng hôn nhân không là điều nhất thiết. Tôi thậm chí cùng với một cô bạn cùng chí hướng còn vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp: hai bạn gái thành đạt tậu villa cạnh nhau, ngày ngày một bạn lái Mini một bạn lái Mercedes đi làm, tối về thay Bentley đi bar giải trí. Một ước muốn sặc mùi vật chất kiểu nữ quyền rởm rít. Tới khi bước vào đại học là đời sống ước mơ của tôi đã bắt đầu bước sang một trang mới. Năm 18 tuổi, khi chứng kiến những cuộc đau đầu chuẩn bị phong bì của cha mẹ cho nhân viên phòng thuế, tổ kiểm tra y tế hay đơn giản là vì mới thay cán bộ công an phường, tôi muốn trở thành nhà báo giỏi, sẽ đi viết điều tra xã hội, hướng tới một nền chính trị đẹp đẽ trong lành. Tôi thi vào trường báo thật, và cũng xin đi làm báo thật. Nhưng ngoài bài viết phản ánh bãi rác trên đường vào chung cư, có tác dụng cứu cả khu nhà tôi khỏi mùi rác thối, tôi tự nhận thấy mình chưa có một bài báo nào ra hồn mơ ước trong suốt 3 năm cả đi thực tập, cộng tác lẫn được ký hợp đồng. May hơn khôn, ước mơ chỉ là mơ ước, tôi kiếm tạm tiền chi trả học phí và đời sống cá nhân nhưng thật tình chưa bao giờ là một nhà báo giỏi. Năm 21 tuổi, lần đầu tiên tôi làm một nghiên cứu truyền thông – xã hội học về sự tái trình hiện hình ảnh nữ giới trên tạp chí giải trí Việt Nam cho khoá luận tốt nghiệp đại học của mình. Đó là lần đầu tiên tôi biết hoá ra trên đời có những thứ gọi là thống soát xã hội, sự thống trị của nam giới, bạo lực tượng trưng, nữ quyền, … cũng là lần đầu tiên tôi bị thôi thúc bởi nhu cầu suy nghĩ, phê phán, phản tư về mọi điều đang diễn ra trong cuộc sống. Quay trở lại ước mơ, sau khi làm xong khoá luận, tôi, con bé 4 năm đại học chạy đi làm kiếm tiền nhiều hơn đi học, đóng tiền học lại tiền triệu môn thể dục và logic học đại cương bắt đầu mơ ước mình được đi học. Chưa bao giờ tôi cảm thấy rõ rệt giá trị của việc học đến như thế, không phải vì tấm bằng giỏi, không phải vì một cái mốc nào đó cần đạt được trong đời. Tôi ước mình được học, bởi ý nghĩa đơn giản nhất của sự học, để HIỂU. Để hiểu vì sao truyền thống phụ nữ Việt Nam cho đến ngày cưới phải còn nguyên vẹn màng trinh. Để hiểu vì sao tư thế làm tình phổ biến nhất là ‘trai trên gái dưới’. Để hiểu vì sao Omo sử dụng thông điệp Bẩn là hay (Dirt is Good). Để hiểu vì sao người ta sơn máy giặt thì màu trắng, còn ti vi điện thoại lại màu đen. Tôi còn có thể kể ra nhiều trang nữa những gì tôi đã hiểu ra – như một kết quả của một sự học nguyên chất thuần tuý. Và thế là, tôi mơ ước được HỌC và HIỂU. Có người hỏi tôi, có tiếc 4 năm đại học đã không chăm chỉ đi học không? Tôi cũng hơi hơi đôi lúc, nhưng đa phần là không tiếc, cũng như tôi gần như chưa từng hối tiếc vì bất kỳ quyết định nào của mình. Không phải bởi thời gian đã trôi qua không thể nào trở lại, mà vì hơn hết, tôi quan niệm, mình có thể học được ở bất kỳ đâu, từ bất kỳ ai, và không có quá trình nào là bỏ phí nếu tôi còn dùng năng lượng mình có để mà lao động nhiệt tình. 4 năm ít tới trường, tôi học ít hơn từ giảng viên và giáo trình, nhưng tôi được học nhiều hơn từ môi trường lao động và đời sống hàng ngày. Như tôi vẫn thường khoe với các bạn mình, tôi thấy mình học được từ cả những người các bạn gọi là ‘ngu’. Từ bấy đến giờ, ước mơ của tôi chưa thay đổi. Đó cũng đồng thời là ước mơ duy nhất từ khi sinh ra đến giờ không làm cho tôi cảm thấy tự ti và xấu hổ. Trái lại, nó còn làm tôi hết sức mãn nguyện và hài lòng. Trong vấn đề “mơ ước”, tôi đột nhiên nhận ra mình chưa bao giờ là một người theo chủ nghĩa lãng mạn. Bây giờ nhớ lại, tôi nghĩ chính cái câu đề từ Mẹ tôi viết đầu cuốn sổ lưu bút kia đã trở thành bài học đầu tiên, dai dẳng theo suốt cuộc đời. Nó làm tôi rụt rè mơ ước (vì sợ nó sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực), nhưng đồng thời sau này nó cũng khiến tôi kiên quyết và cứng đầu thực hiện bất kỳ thứ gì mà mình gọi là ước mơ, dù đôi khi theo những cách thức thật điên rồ và nông nổi. Nhưng mà thôi, có hề gì? Cuối cùng, điều quan trọng nhất là tôi (nghĩ mình) đã có được cái gọi là “NIỀM TIN và ƯỚC MƠ”… Lý do tôi đi xem triển lãm Sự sống và Cái chết ở Pompeii & Herculaneum một phần lớn là vì nó được trưng bày trong phòng đọc mái vòm cũ của Thư viện Anh, nơi đã đóng cửa từ lâu, chỉ hãn hữu mới được mở ra trưng bày những collection đặc biệt. Ở Anh, tôi rất hay bị lẫn lộn không gian trường học với bảo tàng, bởi kiến trúc tương đồng, và trong trường học nào tôi vào cũng bắt gặp các tác phẩm từ Phục hưng tới đương đại xếp đặt hợp lý ở nhiều nơi[i]. Trở lại với Life and Death in Pompeii and Herculaneum triển lãm rất đông người tới xem dù giá vé cộng cả bộ hướng dẫn đa phương tiện vào là tròn 20 bảng, xấp xỉ tiền ăn cá nhân một tuần ở London. Mỗi đợt mở cửa cho khách vào tham quan cách nhau 30 phút, ai có thẻ thành viên thì được vào luôn khỏi phải xếp hàng, nhưng cũng chẳng lợi lộc hơn gì, bởi trước hay sau thì vẫn thấy đông nghịt người chen chúc bên trong giẫm chân huých tay nhau sorry excuse me liên tục. 1. Trong toàn bộ quần thể trưng bày có lẽ đối tượng được trông chờ và quan tâm nhất là bức tượng Thần Pan làm tình với dê (ảnh trên). Vui nhất là đứng ngắm phản ứng của khách tham quan đến từ đủ mọi nơi trên thế giới. Người thì vừa nhìn lướt thoáng qua đã biểu lộ vẻ ghê tởm trên nét mặt quay ngoắt đi không thèm xem cả những hiện vật khác trong phòng. Người thì ối á ồ à gọi ngay bạn bè đến xem cười hích hi bình phẩm. Những người già thường chăm chú đọc rất kỹ chú thích, cố gắng hiểu xem đây là thứ nghi lễ tôn giáo dị đoan nào chăng? Đứng đằng sau một cặp vợ chồng Anh lớn tuổi, tôi nghe rõ mồn một tiếng thì thầm của bạn chồng lặp lại liên hồi với vợ những câu đồng nghĩa:“This is pathetic. This is just not aesthetics. I don’t think it is appropriate here, …[ii]” Trong khi các bạn ấy bàn bạc bày tỏ quan điểm về mỹ học và đạo đức, thì tôi, kẻ chỉ được đứng vòng ngoài xa xăm ngắm Pan và bạn tình yêu nhau, băn khoăn khổ sở nhất với việc xác định giới tính của con dê. Trong bức tượng, Pan, tay trái tì lên khuỷu chân bạn tình, tay phải, nắm chặt lấy râu dê. Tất nhiên, dê đực hay dê cái thì đều có râu, nhưng không hiểu sao chi tiết này cứ làm tôi ám ảnh mãi về giới tính của nó, bởi vì trong xã hội La Mã có phổ biến tình cảm đồng tính dưới hình thức bạn tâm giao tri kỷ. Nếu Pan và con dê đang sinh hoạt tình dục đồng tính thì có phải là tuyệt hay không? Một cú tát vào thế kỷ 21! Thế nên về nhà tôi mới đi ‘bới lông tìm vết’ hỏi wiki cách phát hiện giới tính của dê. Kết quả là, Wiki tiếng Việt bảo ở hầu hết các giống dê, dê đực có sừng, dê cái không. Con dê trong bức tượng có sừng! Đi mò mẫm tiếp đến cách nhận biết giới tính của giống dê núi cả đực và cái đều có sừng, kết quả tôi tìm được một cách nhận dạng như trong ảnh. Theo đó, đường cong bạn tình thần Pan có vẻ gần với con đực hơn. Chưa kể nhìn qua bên ngoài thì hình như sinh thực khí thần Pan còn hơi sát với đuôi con dê hơn bình thường nữa. Cơ mà, cả trong ảnh và bên ngoài, ta đều nhìn thấy rõ ràng, tuyến vú của con dê rất phát triển, trông như dê cái. Thế tóm lại nó là cái giới gì? Giả thuyết của tôi nó là một con dê song tính (intersex)[iii]. Ám ảnh này đã theo tôi cả tuần trời, tôi kể cho Soi, tôi hỏi bạn bè xung quanh về dê đực dê cái. Tất nhiên ai cũng đoán, nhưng chẳng ai dám chắc. Chỉ còn một cách, quay lại nhìn cho kỹ sinh thực khí của con dê. Gần một tuần sau, tôi quyết định quay lại British Museum để xem thêm lần nữa. Lần này không la cà theo đám đông xem từng tí một, tôi tiến thẳng tới Pan và dê. Không do dự xấu hổ lằng nhằng, tôi úp thẳng mặt vào tủ kính, quan sát hồi lâu, trong lòng buồn vô hạn khi thấy hạ bộ bạn dê không có cái linga nào. Tuy vậy, tôi vẫn giữ niềm tin gần tuyệt đối vào giả thuyết bạn tình thần dê mang cả hai giới tính. 2. Rõ ràng như tên gọi, triển lãm được chia làm hai phần: Life – Sự sống và Death – Cái chết. Phần sự sống dông dài nhiều tầng lớp, nhóm vật thể khác nhau. Phần cái chết, đúng như thảm hoạ xảy ra ở Pompeii và Herculaneum ngày cũ, ngắn ngủi và hụt hẫng, nhưng lại khiến cho người xem nghĩ về nhiều điều. Mỗi hoá thạch nạn nhân đều được trưng bày kèm cùng với những đồ vật tìm thấy bên họ. Người thì ôm chặt lấy đứa con, người thì cố gắng mang theo thật nhiều trang sức, bên một cậu thiếu niên người ta tìm thấy một con dao, bên cạnh một thiếu phụ người ta tìm thấy một bộ dũa bằng vàng, … Đứng trước tử thần, con người ta có biết bao nhiêu là lựa chọn khác nhau, ưu tiên thậm chí nhiều khi trái ngược. Cũng như thế, nghĩ về tượng thần Pan làm tình với dê, tôi đã đứng đó và quan sát được biết bao nhiêu thái cực ngược chiều. Suy cho cùng, sự khác biệt giữa từng cá nhân đã là quá rõ, dựa trên nền tảng gia đình, giáo dục, môi trường sống, … không ai giống một ai. Thế mà, không hiểu sao, vẫn có vô số những người cho rằng kẻ sống khác mình là sai trái suy đồi, kẻ làm ngược với số đông là ngu đần xuẩn ngốc, một đứa trẻ thông minh ham đọc sách ít đọc truyện tranh là đánh mất tuổi thơ. Cuối cùng thì, như Jean Paul Sartre đã nói: “WE ARE OUR CHOICE”! XEM THÊM VỀ SỰ SỐNG VÀ CÁI CHẾT Ở POMPEII & HERACULANEUM: Bài: Ann Lee (Metro) Dịch: Trà My Đăng trên Soi ngày 29.04.2013 Quên đi nhé bỏng ngô với nước ngọt, đi xem phim bây giờ là phải lên facebook, twitter bình xét ngay về bộ phim mình vừa xem để tỏ cho thiên hạ rõ mình thấy phim hay phim dở thế nào. Mạng xã hội hiện nay trở thành một không gian hoàn hảo cho một chút khoe mồm sướng miệng về điện ảnh dù giải trí hay nghệ thuật mà chúng ta vừa mới bỏ tiền ra thưởng thức. Hầu như khán giả nào cũng trở thành một “nhà phê bình” phim thứ thiệt khi cố gắng diễn tả gọn ghẽ những gì mình vừa xem. Xu hướng này chẳng mấy chốc đã được các nhà làm phim để ý, lèo lái theo đường hướng có lợi cho mình: sử dụng quan điểm của những nhân vật bình thường đặt bên cạnh ý kiến của các nhà phê bình xuất chúng. Khi cơn bão Sự bất khả (The Impossible) đổ bộ vào tháng 1, tấm áp phích quảng cáo của phim này thậm chí còn sử dụng ý kiến của các khán giả bình thường đưa lên bên cạnh những nhà bình phim uy tín. Trong số đó có đoạn nhận xét là của một sinh viên ngành thời trang tên Katie Kelly như sau: “Phim hay và đáng xem, làm cho bạn nhận ra điều gì thực sự quan trọng trên đời”. Trên thực tế, chiều hướng nào đang thu hút khán giả? Họ muốn nhận những lời giới thiệu phim từ những khán giả đồng cấp hay từ “dân chuyên” dành cả một đến vài thập kỷ trong phòng tối xem hàng trăm bộ phim mỗi năm?! Barry Norman, nhà phê bình phim kỳ cựu 79 tuổi cực lực phản đối việc trầm trọng hoá các nhận xét về phim của công chúng trên mạng xã hội. “Ý kiến của mỗi cá nhân chỉ có giá trị đối với anh ta, chẳng có ảnh hưởng gì đến ai hết… Internet ở đó, có hàng triệu người post lên ý kiến của mình, bạn chả biết họ là ai, bao nhiêu tuổi, đã xem bao nhiêu phim. Nói thật tôi chẳng quan tâm tí nào đến những người đó, theo tôi họ không đáng tin”.
Norman đã có thâm niên 26 năm làm chủ show BBC’s Film, hàng tuần theo dõi đưa ra bình xét về thị trường phim và phỏng vấn nhân vật. Ông từng phỏng vấn Elizabeth Taylor, Brigitte Bardot, John Wayne, Tom Cruise, Michelle Pfeiffer, Al Pacino và Tom Hanks cùng nhiều người nổi tiếng khác. Barry đặc biệt thích lối phê bình của Philip French cho tờ The Observer và Roger Ebert của Chicago Sun-Times. Với Barry Norman, điều làm nên một nhà phê bình phim đúng nghĩa đơn giản là “Honesty” – chân thành. “Dù bạn có nói gì về bộ phim, đó phải thực sự là điều mà bạn tin tưởng”. Ông nói: “Có hai loại phê bình mà tôi thật tình chẳng bao giờ thèm để ý. Một là loại dùng phim để tự quảng cáo cho bản thân. Hai là loại đi đọc tất cả phê bình của người khác rồi chọn lấy cho mình chiều bình trái ngược ra vẻ ta đây thông minh hơn hết thảy”. Cả hai loại phê phim này, Norman đều cho là “bullshit” và nên mặc xác nó không cần quan tâm. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên kỹ thuật số, nơi mà mọi ấn phẩm đều sử dụng Twitter, Facebook làm phương tiện truyền thông nhanh chóng tức thời, liệu thời kỳ hoàng kim của các nhà phê bình phim đã đến ngày cùng tháng tận? “Tất nhiên ở Mỹ chuyện này có xảy ra. Tôi nghĩ nó thật là ‘man rợ’. Rất nhiều tờ báo của Mỹ đang bỏ dần mục bình phim để độc giả có thể theo dõi thông tin trên mạng. Tôi thấy sự thay thế này chẳng tốt chút nào”, Norman bày tỏ. Ông tin rằng, sự khác biệt giữa nhà phê bình chuyên nghiệp và những kẻ nghiệp dư hành nghề trên Facebook là ở chỗ: “Người bình chuyên nghiệp thì đã phải xem bao nhiêu là phim, hơn các bạn amateur rất nhiều. Có như thế người ta mới trang bị đầy đủ kiến thức, thế giới quan để mà đánh giá bộ phim mà họ xem”. Một nhà PR điện ảnh 35 năm thâm niên tên Charles McDonald cũng cho rằng không có chuyện Twitter hay Facebook sẽ làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của nghiệp phê bình chuyên nghiệp. Tuy nhiên, anh đồng ý, với sự tương tác và nhanh nhạy của mạng xã hội, việc kích thích đám đông, điều tiết một số chiều tác động vào bộ phim là hoàn toàn có thể có. McDonald nói, việc nhận xét về phim trên mạng xã hội có thể được coi như một trường phái phê bình khác, nơi mà các “nhà phê bình” tha hồ kiếm view từ việc bày tỏ quan điểm về bộ phim… Mới đây, ở trường tôi[1] các bạn sinh viên sau đại học có tổ chức một triển lãm mở nho nhỏ có tên là Flat 34 tại một trong số các khu ký túc xá sinh viên gần trường. Không gian triển lãm là một mặt bằng căn hộ có 5 phòng ngủ đơn, một hành lang tương đối dài, một phòng kỹ thuật nhỏ và một căn bếp sinh hoạt chung rộng rãi. Trên diện tích 90 mét vuông được xẻ nhỏ đó có 12 tác phẩm bao gồm ảnh, trình diễn thị giác, phim tài liệu, sắp đặt và tương tác đa phương tiện. Trong số những tác phẩm đó, tôi ấn tượng nhất là đoạn phim được chiếu trên màn hình máy tính xách tay 15in đặt trong phòng kỹ thuật tối om trống trải, chỉ có một cây lau nhà và mấy đường ống nước dựng đứng. Phim là phim câm, có nghĩa là có một vài tiếng động lạch cạch của máy quay, của băng chạy nhưng người thì im không nói. Trong phim, một cô gái trẻ mặc quần áo ở nhà ngồi bên máy giặt và lò nướng. Cảnh thì cô ngồi im lặng với mấy con cá chết ngắc ngứ xếp trên sàn bếp. Cảnh thì cô trải ra xếp sắp thứ vật liệu gì đó nhìn tương tự như cát và giả vờ làm động tác bơi. Sau đó , không hiểu thế nào mà đầu cô ấy chui tọt vào máy giặt, ngủ mơ trong đấy, đèn tóm tắt dần tối thui. Cuối cùng, cái ô tròn của máy giặt bỗng nhiên sáng bừng, cô gái đầu không thấy ở trong máy giặt nữa, lại bình thản ‘ngồi tựa mạn thuyền’, trên đầu lơ lửng mây bay, … Kể ra thì kể cho vui vậy, thật tình tôi không định nhận xét về các tác phẩm, bởi vì dù hay hay dở (mà có cái tôi cũng chẳng hiểu gì), thì tôi vẫn thấy cách tổ chức triển lãm như vậy rất hay. Hay bởi hai lẽ.
Một là, các bạn sinh viên tự nhiên lại có việc để làm. Một sự lao động nghiêm túc tử tế vì cái tôi và vì nghệ thuật (tôi đoán thế), chứ không mang chút xíu nào đong đếm tiền nong thương mại. Vì mới đây thôi tôi cũng là sinh viên ở Việt Nam nên vụ này rất là thấm thía. Hai là, đây là một trải nghiệm, một kinh nghiệm đời sống và nghệ thuật tuyệt vời cho người xem. Bởi các bạn sinh viên trưng bày tác phẩm trong chính các căn phòng nơi ngày ngày họ sinh hoạt, rất dễ để chúng tôi lẫn lộn coi tác phẩm là đồ cá nhân, vật dụng cá nhân là tác phẩm, dù các bạn đã có chú thích rất rõ ràng. Ví dụ như Anne, cô bạn người Hà Lan cho nghệ sĩ mượn bàn học để trưng bày một cuốn sách. Cuốn sách triển lãm tất nhiên có đính kèm cùng lời chú giải, tuy nhiên, trên giá sách ngay cạnh đó của cô còn nhiều cuốn khác nữa. Vậy thì, giới hạn của tác phẩm và của không gian triển lãm nằm ở đâu? Điều này kích thích trí tưởng tượng của chúng tôi vô cùng. Tôi ngờ rằng, trong lúc lục tìm tác phẩm bằng cách tự huyễn ý tưởng của chính mình vào các đồ vật, chúng tôi đã vô tình tạo ra những tác phẩm mới. Đây chẳng phải là cách kết nối, tương tác tuyệt vời hay sao? Không phải chỉ có tôi, mà cả những bạn khác khi trao đổi cũng đều bày tỏ rằng họ vô vùng bối rối khi đường đột bước vào phòng ngủ của một người khác, nhất lại là hoàn toàn xa lạ, có cảm giác như mình là kẻ phá bĩnh, là kẻ đang đi xâm chiếm không gian riêng tư của người khác. Ở một đất nước mà tính cá nhân và quyền riêng tư được coi nặng như ở Anh, cảm giác này thực sự rất nghiêm trọng. Vượt qua được bước “xâm lấn” đó, trong chúng tôi bỗng quên bẵng nó để bắt đầu trỗi dậy một đức tính hết sức con người khác, đó là TÒ MÒ. Xem xong tác phẩm (hoặc chưa xem xong / chưa thèm xem), chúng tôi nhất định phải ngó thêm lên giá sách, lên bàn học, giấy nhớ, lên giường, thậm chí toa lét của chủ nhân, trong đầu không khỏi hiện lên những đánh giá mà tôi không dám chắc là không có nhiều chủ quan, định kiến. Gọi là triển lãm sinh viên nhưng thật tình vì đều đang làm thạc sỹ hoặc tiến sỹ, nên các bạn cũng có ít nhiều kinh nghiệm thực tế. Có bạn còn triển lãm mấy quyển sách ảnh có tiếng đã được xuất bản. Thêm vào đó, vì trong ký túc xá các bạn đến từ nhiều nước khác nhau nên còn nấu rất nhiều món ngon để người xem thưởng thức với giá rẻ hoặc hứng lên thì miễn phí. Bởi vậy, tựu chung lại, dù có người khen người chê, tôi vẫn thấy triển lãm kiểu này hết sức là sinh viên, khả thi và “con người”. Vì còn ở với nhau đến hết năm học nên các bạn cũng có dự định tổ chức một số buổi như thế hàng tháng kéo dài tới mùa hè. Vậy nên, nếu có ai ở London muốn tới xem qua thì có thể tìm đường đi ở trang web này: www.flat34.org. Tiếc là các bạn ấy không đưa tác phẩm lên đây mà chỉ có giới thiệu chung sơ qua mà thôi. Bùi Trà My (http://soi.com.vn/?p=106283) --- [1] Goldsmiths College, University of London: www.gold.ac.uk Trường triết học nghệ thuật và mỹ học [1] phương Tây nhiều thế kỷ nay vẫn dành sự tôn thờ tuyệt đối cho hai năng lực cảm thụ từ xa là thị giác và thính giác. Lịch sử nghệ thuật ghi nhận các tác phẩm hội họa, điêu khắc, giao hưởng thính phòng, nhạc kịch,… đều đòi hỏi năng lực cảm và hiểu bằng hai giác quan đó. Cách đây nhiều năm, khi cảm thấy vô cùng bất lực trong việc dùng ngôn ngữ và hình ảnh để diễn đạt cái mà mình đang trải nghiệm (ví dụ như mùi hương ngai ngái mát lành của đám cây lá trước vườn nhà và mướt mát mơn trớn của cơn gió sớm luồn nhẹ vào tóc tai), tôi cũng bất chợt tự hỏi liệu có một phương tiện nào đủ khả năng ghi lại những cảm giác ấy của mình hay không? Cho tới gần đây, suy nghĩ đó lại quay trở lại khi tôi có cơ hội đọc và nghe Laura U. Marks nói về văn hóa đa giác quan.
Đa phương tiện, đa chiều là những thuật ngữ đã được nhắc nhiều thành quen trên truyền thông Việt Nam. Tuy nhiên, đa giác quan dù được chúng ta sử dụng 24/7 trong mọi hoạt động của đời sống lại chưa được mấy ai đề cập. Tương tự như vậy, các tác phẩm nghệ thuật kích thích năng lực thị giác, thính giác cũng đã được phổ cập tới tầm đại chúng, còn những giác quan khác như ngửi, nếm, chạm thì lại có phần hạn chế. Trong tiểu luận Thinking Multisensory Culture (2008) [2], Laura U. Marks đã đặt ra câu hỏi về sự bất bình đẳng trong trật tự giác quan này, trong cả lịch sử nghệ thuật, mỹ học, cũng như trong ngành nghiên cứu văn hóa-nghệ thuật đương đại. Trong khi chúng ta đang nỗ lực đại chúng hóa nghệ thuật và phá bỏ những rào cản mang tính giai cấp và khuôn mẫu thì việc tập trung sự chú ý vào nghệ thuật thị giác/thính giác lại vô hình chung tạo ra một kiểu phân hóa giai cấp khác. Đứng từ khía cạnh cảm thụ nghệ thuật, tác giả đề xuất tiếp cận một tác phẩm bằng nhiều loại giác quan, chứ không chỉ dựa vào năng lực nghe và thấy. Bà viết, ngoài việc được sử dụng như một loại hàng hóa trong xã hội tiêu dùng hiện đại, các trải nghiệm về mùi, vị, xúc giác vẫn chưa thực sự được đối xử một cách đúng đắn, như một kênh tri nhận và đánh giá. Trên thực tế, đứng giữa lằn ranh mong manh của sự khả tri và khả nhận, các giác quan gần gũi với đời sống hàng ngày này có thể là phương tiện hữu hiệu để truyền tải tri thức, cái đẹp, hay thậm chí là đạo đức tới công chúng. Để củng cố cho nhận định này, Laura U. Marks trong buổi thuyết trình tại Goldsmiths College đưa ra giả thuyết về quá trình cảm thụ nghệ thuật của con người gồm ba pha: AFFECT - PERCEPT - CONCEPT - Khi tiếp xúc với một tác phẩm, công chúng thoạt đầu phản ứng bằng những ấn tượng bề nổi, chính là thông qua các năng lực giác quan trời sinh. - Ở pha thứ hai, công chúng bắt đầu liên nối ấn tượng, cảm xúc ban đầu đó với những trải nghiệm cá nhân của bản thân, đây là thời điểm tri giác được hoạt động. - Tới pha cuối cùng, nền tảng học vấn của mỗi cá nhân sẽ liên hệ kết quả của pha tri giác với các khái niệm trừu tượng hơn và đi đến phân tích, thấu hiểu, tự phê bình tác phẩm. Quay trở lại với tính ứng dụng của các giác quan, bởi tính tương tác với cảm xúc và ký ức trong ba pha cảm thụ, một người sẽ hiểu được tác phẩm nhiều nhất nếu sử dụng tối đa giác quan. Bởi thế, một tác phẩm sẽ đạt được hiệu quả biểu đạt cao nhất nếu tác động tối đa tới mọi năng lực cảm giác của con người. Cách thức kỳ diệu này đã bắt đầu được áp dụng trong lĩnh vực giải trí qua loại hình phim 4D, 5D. Tôi hiện đang rất hồ hởi mong được thấy các tác phẩm đa giác quan của nghệ sỹ Việt Nam cũng như cách thức phê bình tác phẩm thông qua năng lực chạm, ngửi,…, trước là để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, sau là hy vọng tạo cung – đáp ứng cầu cho đại chúng. * Chú thích: [1]. Aesthetics. Thuật ngữ aesthetics được đưa vào lý thuyết triết học tương đối muộn, vào thế kỷ 18, bởi Baumgarten. Aesthetics sau đó được Lessing định nghĩa như một sự kết nối giữa nghệ thuật và các giác quan, tuy nhiên nhấn mạnh chỉ các giác quan bậc cao: thị giác và thính giác. [2]. Marks, L.U (2008). Thinking Multisensory Culture. Paragraph 31:2, ed Wilson, E. (07/2008): 123-137 * Về Laura U. Marks: Laura U. Marks (Ph.D) hiện đang giảng dạy bộ môn Art and Culture Studies ở trường Nghệ thuật đương đại thuộc Đại Học Simon Fraser. Bà đồng thời tham gia thỉnh giảng ở nhiều nơi và tham gia hoạt động giám tuyển, phê bình, nghiên cứu, biên tập trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật. Các tác phẩm xuất bản tiêu biểu: - Marks, L.U. (1999). The Skin of the Film: Intercultural Cinema, Embodiment, and the Senses. Duke University Press - Marks, L.U. (2002). Touch: Sensuous Theory and Multisensory Media. U.o.Minnesota Press - Marks, L.U. (2010). Enfoldment and Infinity: An Islamic Geneaology of New Media Art. MIT Press Tính tới thời điểm này, tôi đã ở London được tròn nửa năm.
Trong nửa năm đó, không dưới mười lần tôi đọc được các câu chuyện cảnh báo về người da đen ở trên facebook của các bạn mà tôi có quen biết. Không dưới chừng đó lần tôi được các bạn cảnh báo nếu có lang thang ở khu New Cross (trường tôi) và Lewisham (nơi tôi đi chợ suốt ngày) thì phải cẩn thận vì đông người gốc Phi, đấy là tôi đã nói giảm nói tránh đi cái cách mà các bạn nhắc tới cộng đồng có nước da đặc trưng bánh mật này. Những câu chuyện được kể đa phần là các bạn da đen ầm ỹ, ít lịch sự, sinh hoạt mất vệ sinh, bạo lực, thi thoảng có những vụ tấn công trấn cướp sinh viên nhà mình. Còn tôi, từ ngày đặt chân lên thành phố này, những người đối xử với tôi tốt nhất lại chính là những người gốc Phi. Khi tôi tìm hoài không ra đường vào bến tàu, một bà mẹ da đen dù tay xách đủ thứ rau củ quả thịt cá sau buổi đi chợ vẫn không ngần ngại dẫn tôi băng qua mấy ngã tư vào tận cửa station cẩn thận. Khi đi xem nhà để thuê lên nhầm xe buýt điện thoại hết pin, tôi đành gõ cửa bừa một văn phòng môi giới nhà đất ở Hither Green để xin sạc nhờ, dù tối trời văn phòng đã đóng ông quản lý da đen mập béo cũng chẳng ngần ngại mà cho con bé lạ hoắc hơ này vào ngồi cả nửa tiếng rồi còn vẽ tay bản đồ cẩn thận cho tôi đi. Đêm giao thừa chuyến tàu muộn cuối ngày bỏ bến không dừng, tôi phải đi bộ ra bến xe buýt rất xa trong mưa lạnh, cũng là một bạn da đen tình cờ cùng đi một đoạn, dù không nói nửa lời với nhau nhưng cũng làm tôi cảm thấy yên tâm lắm lắm. Khi còn ở nhà cũ, các bưu phẩm gửi đến lúc tôi không có nhà bao giờ cũng là các bạn hàng xóm da đen nhận hộ, dù cách xa nhau tận mấy tầng nhà. Lần cuối cùng tôi xuống nhà số 07 lấy đồ, cô bé con da giống ‘bánh gai’ hơn là bánh mật tóc thắt bím chạy ra ôm chầm lấy ngang hông chào rối rít, tôi thật tình chỉ muốn vứt hết đồ trên tay ôm cô bé lại và trìu mến gọi “Hello darling”… Bạn tôi bảo tôi may mắn, tôi nghĩ đúng là mình may mắn thật, từ sáu tháng trước tới tận bây giờ. Nhưng chỉ có một chi tiết nhỏ, trong khi bạn tôi cứ nhìn thấy người da đen là tránh xa, hoặc nhìn người ta đầy hằn học, thì tôi, chắc bởi cái sự hớn hở cười vui cố hữu, vẫn chưa bao giờ gặp phải bất kỳ một người da đen ‘kém phẩm chất’ nào. Suy cho cùng, nói cười ồn ĩ là đặc trưng của các dân tộc châu Phi thích hát ca nhảy múa, sự mất vệ sinh vương nước bọt ra đường thật tình cũng là đặc trưng nhà cửa, lối sống của các bạn nơi quê nhà. Còn điều quan trọng nhất, là vấn đề tội phạm và bạo lực, trên thực tế theo thống kê của cơ quan cảnh sát London, tội phạm da đen chỉ chiếm 54% các sự vụ trên đường phố, 46% tội phạm xe hơi, 32% quấy rối tình dục, … Ngoài ra, 24-29% nạn nhân của các vụ cướp có vũ trang (súng, dao) là người gốc Phi. Bởi vậy, khó có thể kết luận rằng, người gốc Phi thì nguy hiểm hơn người Âu – Á, và người châu Á thì dễ trở thành nạn nhân của các tội phạm da đen hơn. Cuộc sống ở London, đối với cá nhân mình mà nói, tôi gặp nhiều các bạn Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc và Jamaica, Namibia, … nhiều hơn là người Anh chính gốc. Trong khoá học 15 sinh viên của tôi, người Anh là thiểu số. Trong các khu nhà tôi từng ở, trên các phố mua sắm trung tâm tôi từng qua, sự pha trộn đa sắc tộc cũng hiển nhiên mà nhìn thấy. Tôi quan sát thấy ở các khu đông người Việt Nam ở đồng thời cũng rất đông người gốc Phi sinh sống. Nếu không nhoẻn miệng cười với họ, thì chúng mình sẽ cười với ai đây, nhất là ở đảo quốc châu Âu bốn mùa tràn gió này… |
buitramy.com ⓒ 2021
Archive
March 2024
|