Bùi Trà My (2015). Văn hoá tham gia trên mạng xã hội với hoạt động truyền thông và văn hoá đại chúng, in trong sách Báo chí Truyền thông: Lý luận và Thực tiễn. Bài viết đề cập tới các đặc điểm của văn hoá tham gia, một xu hướng văn hoá và truyền thông mới bắt nguồn từ sự ra đời của Internet và thực sự nở rộ từ phát triển của mạng xã hội. Bài viết cũng phân tích tác động của văn hoá tham gia tới hoạt động truyền thông và văn hoá đại chúng từ một số khía cạnh cụ thể: hoạt động báo chí, hành vi giao tiếp xã hội của từng cá nhân, doanh nghiệp tự thân và văn hoá thanh thiếu niên hiện nay. Cuối cùng, từ những thực tế trên, bài viết đề xuất một cách nhìn nhận mới về đào tạo truyền thông cho đại chúng trong thời đại số. 1. Mạng xã hội và văn hoá tham gia trên mạng xã hội Bắt đầu từ cuối thập niên 1990s, các trang mạng xã hội như Blogger (1999), Wikipedia (2001), Myspace (2003), Facebook (2004), Youtube (2005), Twitter (2006), … đã liên tục được phát triển và sử dụng trên toàn cầu. Ở Việt Nam, Facebook và Youtube là hai mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay. Tính đến tháng 9/2013, Việt Nam có 22 triệu tài khoản Facebook, chiếm 71% tổng số người dùng internet với mức tăng trưởng 164% chỉ sau một năm (Social Bakers 2013). Còn Youtube sau khi được sát nhập với Google cũng đã đạt tốc độ tăng trưởng mạnh. Được xây dựng trên nền tảng kĩ thuật và tư tưởng của công nghệ web 2.0,[1] mạng xã hội là một ứng dụng internet cho phép người dùng khởi tạo trang cá nhân và trao đổi thông tin của mình cũng như quản lý các kết nối bạn bè và theo dõi tiểu sử của họ (Kaplan và Haenlein 2010: 60; Boyd và Ellison 2007: 211). Đúng như tên gọi, hai đặc điểm quan trọng nhất của các phương tiện truyền thông mới này là tính xã hội (social) và giao tiếp kết nối (network). Các cá nhân kết giao với nhau không phải chỉ thông qua không gian thật nữa mà bắt đầu thiết lập những mối quan hệ online trên nhiều không gian mạng xã hội khác nhau. Mỗi người sở hữu từ một đến nhiều nhân dạng online và kết nối tạo thành một mạng lưới với nhiều mắt xích. Họ có thể liên kết với nhau qua trạng thái kết bạn, qua số lượng bạn bè chung, qua sở thích cá nhân, hay qua những địa điểm chung mà họ từng đến, … Trong cuốn The Culture of Connectivity, tác giả José van Dijck đã nhấn mạnh sự chuyển đổi vai trò của không gian online này từ mạng xã hội thành một xã hội thực có tính mạng lưới (2013: 5). Mạng xã hội bắt nguồn từ một cuộc cách mạng về công nghệ nhưng lại tiếp biến, phát triển với yếu tố con người và thực sự trở thành một/nhiều xã hội tồn tại song song và tương quan với xã hội truyền thống. Một đặc điểm vô cùng quan trọng nữa của các phương tiện truyền thông xã hội là tính tham gia. Không giống như những trang web được xuất bản với nội dung có sẵn, các trang web này được thiết kế giống một khung cơ bản và để cho mỗi người đăng ký sử dụng tự điền nội dung của mình vào (Dijck 2013: 7). Trên các trang facebook cá nhân, nội dung ấy bao gồm thông tin cá nhân cơ bản, những sự kiện đời sống diễn ra hàng ngày hay bất cứ dữ liệu gì mà người dùng muốn chia sẻ dưới nhân dạng online của mình. Còn trên các Facebook page, hay các trang chia sẻ hình ảnh, video như Youtube, Instagram, Flickr,… sự chia sẻ này không chỉ dừng lại ở phạm vi chia sẻ đời sống cá nhân. Trên Flickr hay Instagram ta có thể dễ dàng tìm thấy những bộ ảnh chụp bán chuyên/chuyên nghiệp. Trên Youtube người dùng tải lên các video tự quay, tự biên tập, thậm chí những phim ngắn tự sản xuất. Bằng việc tham gia vào quá trình “tạo nội dung” cho các mạng xã hội như vậy, vai trò của nhóm công chúng truyền thống bắt đầu thay đổi. Người dùng không chỉ đơn giản là người tiêu thụ thông tin và các sản phẩm văn hoá nữa, mà người dùng còn là nhà sản xuất, đài truyền hình, phóng viên, biên tập viên, thậm chí là tổng biên tập. Thực tế này đã được Henry Jenkins nhắc đến từ năm 1992 với tên gọi: Văn hoá tham gia - participatory culture. Văn hoá tham gia (VHTG) là một xu hướng mới được hình thành cùng với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật số web 2.0 và liên kết chặt chẽ với thực hành truyền thông trên không gian mạng xã hội (Dijck 2013: 4). Trong xu hướng ấy, tất cả các cá nhân với những phương tiện cần thiết đều có thể đóng vai trò vừa là người sản xuất vừa là người tiêu thụ (Jenkins 2006). Ví dụ, với máy tính cá nhân nối mạng, một người có thể thiết lập tài khoản trên trang chia sẻ video Youtube và tải lên đó những video do chính mình quay và biên tập. Cùng một lúc, anh ta vừa tiêu thụ không gian Youtube, vừa sản xuất và phân phối video của chính mình, lại vừa làm khán giả của những video do những người dùng khác tải lên. Bởi tất cả các không gian này đều miễn phí, cách thức sử dụng lại đơn giản nên chúng nhanh chóng thu hút được một lượng người dùng đáng kể. Theo Henry Jenkins (2009: 7), VHTG có năm đặc điểm: 1. Tạo điều kiện cho các biểu đạt nghệ thuật và thực hành dân sự 2. Hỗ trợ cho việc sáng tạo và chia sẻ các sản phẩm đó với người khác 3. Hình thức học tập gián tiếp thông qua chia sẻ của những người có kinh nghiệm 4. Nơi mà các thành viên tin rằng đóng góp của mình là có ý nghĩa 5. Nơi các thành viên có cảm giác kết nối xã hội với người khác Nói một cách ngắn gọn, VHTG là một chuỗi hành vi được thực hiện trên internet mà trong đó một người có thể vừa khởi tạo thông điệp, vừa tự mình truyền thông cho nó và cùng lúc đó vẫn không ngừng kết giao thêm những mối quan hệ xã hội mới. 2. Văn hoá tham gia với hoạt động truyền thông và văn hoá đại chúng Như đã đề cập tới ở trên, sự xuất hiện của web 2.0 kéo theo VHTG đã làm thay đổi mối quan hệ truyền thông đại chúng truyền thống. Trước đây, truyền thông có mô hình như thể một người nói với hàng triệu người. Còn trong bối cảnh hiện nay, hàng triệu khán giả kia đều có cơ hội trở thành nhà sản xuất (Burgess và Green 2009; Chau 2011). Chính yếu tố này đã dẫn đến sự thay đổi trong hoạt động báo chí truyền thông nói riêng và trong ngành công nghiệp văn hoá nói chung. - Thứ nhất, về hoạt động báo chí, có nhiều ý kiến cho rằng mạng xã hội với lợi thế về không gian, thời gian và nguồn nhân lực tự nguyện - người dùng đang dần áp đảo tin tức báo chí về độ nhanh nhạy và đa dạng. Trong cuốn Miễn phí - Tương lai của mức giá cách mạng, Chris Anderson cũng đã đưa ra một nhận định về vấn đề này: “Cung về nội dung đã tăng trưởng gấp hàng triệu lần, nhưng cầu thì không: chúng ta vẫn có hai mắt, hai tai và hai mươi bốn giờ một ngày. Tất nhiên, không phải mọi nội dung đều được tạo ra như nhau, các trang facebook không thể so với báo New York Times… Điểm khác biệt là số trang facebook nhiều hơn số trang của tờ Times và chúng không được tạo ra với ý định thu tiền người đọc” (Anderson 2009: 206). Trong trường hợp này, dường như “đám đông” lại đang chứng tỏ được “trí tuệ” và sự sáng suốt của mình (Surowiecki 2007). Nếu như cá nhân nhà báo hay cả một toà báo chỉ có thể tiếp cận một số nguồn tin nhất định và đưa tin một cách hạn chế thì trên mạng xã hội, ta có thể tìm thấy vô số bài viết bình luận về cùng vấn đề đó. Trên thực tế, một số sự kiện gần đây như Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, bạo động ở Bình Dương đều được chính công chúng có mặt ở hiện trường đăng tải trước nhất trên mạng xã hội. Trong một buổi nói chuyện về đề tài Truyền thông xã hội: Tai ương hay may mắn cho ngành báo chí? ở Viện Goethe Hà Nội, vấn đề này đã được đưa ra thảo luận và nhận được nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các nhà báo tham gia thảo luận đều thừa nhận rằng, không gian mạng xã hội với sự tham gia của công chúng vào vai trò truyền tin là một cơ hội quan trọng đối với hoạt động báo chí hiện nay. Thông tin từ những người dùng được cho là những thông tin khởi đầu quan trọng để các nhà báo tiếp tục thao tác nghiệp vụ để kịp thời đưa thông tin kiểm chứng tới công chúng. Một mặt, sự tham gia đóng góp tin tức của công chúng đem lại lợi ích cho nhà báo, mặt khác nó cũng tạo ra áp lực lớn hơn cho những người hoạt động báo chí. Mới đây, tờ New York Times thậm chí còn sản xuất một bản báo cáo dài 97 trang gồm những đề xuất đổi mới để phù hợp với thời đại truyền thông số và truyền thông xã hội hiện nay như: tương tác với độc giả để tạo ra nội dung mới, sử dụng từ khoá tag triệt để, phóng viên phải tải lên Twitter năm tin liên quan đến bài viết mà họ nộp, … (Benton 2014). - Thứ hai, ở khía cạnh giao tiếp cá nhân, có thể nói VHTG trên mạng xã hội đã góp phần giúp chúng ta đạt được những nhu cầu cao cấp nhất trong cuộc sống. Theo tháp nhu cầu của Maslow, con người sau khi đủ ăn, đủ mặc và được an toàn rồi thì bắt đầu có nhu cầu giao lưu tình cảm, được quý trọng và cuối cùng là muốn được sáng tạo, tự do thể hiện bản thân. Một số người e dè, nhút nhát trong không gian thực dường như lại dễ dàng chia sẻ hơn trên mạng xã hội cùng với những phím chức năng như add friend - kết bạn, share - chia sẻ, like - thích, … (Rosenwald 2011) và nhận được sự quý trọng của mọi người nhờ tham gia vào những cộng đồng mà mình thực sự hiểu biết. Không chỉ thế, tác động lớn nhất của VHTG trên mạng xã hội đối với chuỗi nhu cầu này là nó kích thích sự sáng tạo, thể hiện bản thân gần như không giới hạn. Đây là điều đã được hai tác giả Jean Burgess và Joshua Green đề cập đến dưới tiêu đề Chính trị văn hoá - Cultural Politics trong cuốn Youtube: Video trực tuyến và Văn hoá tham gia. Phân tích mạng xã hội chia sẻ video trực tuyến Youtube, hai tác giả nhấn mạnh rằng đây là một không gian khuyến khích tất cả mọi người bình thường tham gia vào hoạt động văn hoá. Dù anh mang quốc tịch nào, thuộc nhóm sắc tộc văn hoá ra sao, thì anh vẫn được đối xử công bằng và được mang sản phẩm văn hoá của mình ra giới thiệu với công chúng cả thế giới (2009: 75). Youtube mang đến một không gian văn hoá bình đẳng và tương đối đại chúng[2], xoá nhoà các ranh giới mang tính quyền lực thông thường. - Thứ ba, trong nhiều trường hợp, nhu cầu biểu đạt và sáng tạo nói trên không những được thoả mãn còn được khuyến khích bằng yếu tố vật chất. Khi ấy, các chủ tài khoản mạng xã hội bắt đầu có thêm một vai trò mới: doanh nghiệp tự thân.[3] Trong một vài năm trở lại đây, mạng xã hội và VHTG đã góp phần mở rộng thêm quan niệm về ‘doanh nghiệp’. Trong không gian web 2.0 này, bất kỳ ai cũng có thể trở thành một doanh nghiệp tự thân. Một ví dụ điển hình và thú vị cho hình thức mới mẻ này là các vloggers trên Youtube. Vloggers là tên gọi viết tắt của video blogger, những người ghi lại nhật kí trên mạng bằng hình ảnh động. Vlogger sử dụng đời sống riêng tư, quan điểm cá nhân của mình để sản xuất ra các video mang tính giải trí và tải miễn phí lên không gian Youtube. Các sản phẩm đó được đưa ra tiêu thụ với mức giá miễn phí cho người xem. Video càng hấp dẫn thì số người click xem và ấn nút ‘yêu thích’ càng nhiều. Khi vlogger đạt được một số lượng người xem và theo dõi nhất định, họ sẽ được kí một thoả thuận hợp tác với Youtube. Theo đó, Youtube bắt đầu đưa các quảng cáo vào video của họ và trả tiền cho chủ nhân kênh video dựa trên lượng người xem. Trong một số trường hợp, với những vloggers làm nội dung có tính giáo dục, hoặc nâng cao ý thức xã hội, … ta còn có thể nhìn nhận họ như những doanh nghiệp xã hội. - Thứ tư, bởi phần lớn nhóm công chúng sử dụng mạng xã hội và tham gia vào đóng góp nội dung là thanh thiếu niên, việc nghiên cứu hành vi và nội dung của các sản phẩm văn hoá - truyền thông này không thể tách rời văn hoá thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay bởi chúng tồn tại song song và tác động qua lại lẫn nhau. Cùng một lúc trong môi trường VNTG của mạng xã hội, thanh thiếu niên vừa là người làm nội dung vừa là người kết nối xã hội (Chau 2011: 65). Họ phát triển, tương tác, học hỏi và cả chỉ trích, phản biện nhau trên đó. Trong bối cảnh Việt Nam, mặc dù thanh thiếu niên được nhìn nhận như là ‘tương lai’ của đất nước, tiếng nói của nhóm công dân này không thực sự được coi trọng. Trong bài viết Thanh niên học sinh, sinh viên với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành, tác giả viết: Thanh niên nói chung là một bộ phận của xã hội không có tư tưởng riêng. Bởi thế, giai cấp công nhân và Đảng tiên phong phải xiết chặt, động viên, giáo dục và thức tỉnh nhằm giúp họ tìm ra được chân lý cách mạng và cố gắng phấn đấu vì chân lý ấy. (Nguyen 1997: 6, trích theo Nguyen 2005: 5) Trong môi trường gia đình, nhà trường và xã hội, nhóm thanh thiếu niên đều được cho là đối tượng cần được giáo dục. Tuy nhiên, cách giáo dục rập khuôn, nhiều lý thuyết ít thực hành, đôi khi mang tính định kiến từ kinh nghiệm của những người đi trước (World Bank Report) đã khiến cho tính sáng tạo của thanh thiếu niên Việt Nam không được bộc lộ. Trong bối cảnh ấy, mạng xã hội ra đời cho phép người dùng tham gia vào cùng sản xuất nội dung đã trở thành một lựa chọn lý tưởng cho người Việt trẻ. Trên không gian này, họ được tự do sáng tạo và nêu lên ý kiến cá nhân. Không chỉ nỗ lực giải quyết các vấn đề cá nhân, nhóm công dân này còn bày tỏ những mối quan tâm với những sự kiện văn hoá, xã hội và chính trị. Ví dụ, các vloggers Việt Nam ngoài những nội dung phơi sáng đời tư cá nhân và/hoặc giải trí thì còn sản xuất một số lượng lớn các video bày tỏ quan điểm nghiêm túc về các vấn đề như: Giáo dục ở Việt Nam, Giáo dục giới tính, Phản ứng của giới trẻ với các sự kiện truyền thông, … Ở một chừng mực nào đó, chính những hoạt động của nhóm thanh thiếu niên này là một thể hiện rõ ràng của quyền và nghĩa vụ người công dân. Trước thực tế này, có một số ý kiến quan ngại cho rằng tự do thái quá sẽ khiến các sản phẩm văn hoá kém chất lượng, các quan điểm ‘lệch lạc’ được phổ biến. Tuy nhiên, tính xã hội tương tác của các phương tiện truyền thông mới cùng với các nút like, unlike, dislike, report[4] sẽ là cách kiểm duyệt dân chủ nhất bởi nó chứa đựng trong đó sức mạnh của tập thể và trí tuệ của đa số (Surowiecki 2007). 3. Kết luận Bài viết đã thảo luận về đặc điểm của VHTG trên mạng xã hội trong kỉ nguyên số và một số tác động của nó tới hoạt động truyền thông cũng như văn hoá đại chúng. Mạng xã hội, VHTG và các tác động của nó là những hiện tượng tất yếu của cả thế giới sau sự bùng nổ của internet và công nghệ web 2.0. Tầm ảnh hưởng toàn cầu của các xu hướng này sẽ còn tiếp biến, lan rộng và hình thành nên những luồng văn hoá, các yếu tố văn hoá - xã hội và chính trị mới. Trong tương lai, rất có thể các khái niệm về cái tôi, nhân thân, công dân, nhà nước, xung đột, … sẽ không còn như cách chúng ta hiểu trong hiện tại (Smitcht và Cohen 2014). Trước tình hình đó, Henry Jenkins đã luôn đề cập đến tầm quan trọng của công tác đào tạo, cung cấp cho người dân nói chung và giới trẻ nói riêng những công cụ để ứng xử trong các môi trường truyền thông đại chúng mới một cách văn minh và tỉnh táo nhất (2009). Ở Việt Nam hiện nay, sau rất nhiều cuộc khủng hoảng thông tin và truyền thông, chúng ta đã bắt đầu chú ý tới tầm quan trọng của việc giáo dục truyền thông cho đại chúng. Không phải chỉ riêng sinh viên ngành báo chí và truyền thông mới cần hiểu về nó. Mà với VHTG và mạng xã hội, bất kỳ ai cũng cần được trang bị kiến thức để sống sót trong bể thông tin và chia sẻ thông tin một cách có trách nhiệm. --- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chris Anderson, 2009. Miễn phí: Tương lai của một mức giá cách mạng, Phan Triều Anh dịch. NXB Trẻ. 2. Joshua Benton, 2014. The leaked New York Times innovation report is one of the key document of this media age, Nieman Journalism Lab. http://www.niemanlab.org/2014/05/the-leaked-new-york-times-innovation-report-is-one-of-the-key-documents-of-this-media-age/ 3. Jean Burgess and Joshure Green, 2009. Youtube: Digital Media and Society Series. Cambridge: Polity 4. Clement Chau, 2010. Youtube as a participatory culture. New Media and Technology: Youth as Content Creators. 5. Aaron Delwiche and Jennifer Jacobs Henderson, 2012. The Participatory Cultures Handbook. USA: Routledge 6. José van Dijck, 2013. The Culture of Connectivity: A Critical History of Social Media. Oxford: Oxford University Press 7. Jan van Dijk, 2012. The Network Society. London: Sage 8. Henry Jenkins, 1992. Textual Poachers: Television Fans & Participatory Culture. Studies in culture and communication. NY: Routledge 9. Henry Jenkins et al., 2009. Confronting the Challenges of Participatory Culture: Media Education for the 21st century. USA: MIT 10. Nguyen Phuong An, 2005. Youth and the State in Contemporary Socialist Vietnam. Centre for East and South-East Asian Studies, Lund University. 11. Michael S. Rosenwald, 2011. Can Facebook help overcome shyness?, Washington Post, 12.02.2011. http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2011/02/12/AR2011021203069.html 12. James Surowiecki (2007). Trí tuệ đám đông, Nguyễn Thị Yến dịch. NXB Tri thức --- Ghi chú: [1] web 2.0 là một xu hướng trong thiết kế và phát triển web mà mục đích là nhắm tới những thuận tiện trong việc chia sẻ, hợp tác và sáng tạo giữa các người dùng. [2] Bởi internet vẫn chưa được phủ sóng toàn cầu và không phải ai cũng được tiếp cận với máy tính, tính đại chúng của các phương tiện truyền thông xã hội này chỉ mang tính tương đối. [3] self-entrepreneurship [4] Các nút để người xem thể hiện thái độ đối với nội dung được tải lên, lần lượt là thích, bỏ thích, không thích, báo cáo vi phạm. Khoảng vài tháng trở lại đây, mình thường xuyên share một số nội dung trong quốc sách The Birth of Korean Cool: How one nation is conquering the world through pop culture (Euny Hong, 2014), thậm chí cưỡng ép bạn bè đọc bằng cách gửi ebook dù chẳng ai đòi. Đây là một trong số ít những cuốn sách gần đây mình cầm lên đọc một mạch tới dòng cuối cùng không đặt xuống. Đây cũng là một trong số rất ít những cuốn sách mà vừa đọc vừa nghĩ phải dịch nó ra tiếng Việt càng sớm càng tốt vì nhiều lý do. Trong quá trình đọc, mình cũng rất khó tránh khỏi liên tục liên nối nội dung của cuốn sách tới Việt Nam.
* Dưới đây là phần mình trích dịch chương Mở đầu của cuốn sách, phần nào đưa ra tổng quan chung về chiến lược phát triển đất nước thông qua văn hoá phổ thông của Hàn Quốc. * Còn trong link này là đoạn trích dịch chương 4, một chương cũng cực kỳ hay, nói về tính cách làm nên số phận của người Hàn Quốc, do PGS.TS Nguyễn Hoàng Ánh (ĐH Ngoại Thương) chia sẻ. https://www.facebook.com/notes/nguyen-hoang-anh/t%C3%ADnh-cách-quyết-định-số-phận-sự-phẫn-hận-của-người-hàn/10153243962018254?pnref=lhc Mục lục: 1. Before Cool 2. The birth of Irony 3. The Dying Art of School Thrashings 4. Character is Destiny: The Wrath of Han 5. Kimchi and the Cabbage Inferiority Complex 6. Why Pop Culture? Or, Failure is the breakfast of champions 7. When Korean banned Rock ’n’ Roll 8. The Lean, Mean, Star-making K-pop Machine 9. Northern Girls, Southern Boys 10. K-Drama: Television and the Origin of Hallyu 11. K-Cinema: The Journey from Crap to Cannes 12. Haley: The shot heard round the world 13. Korea’s Secret Weapon: Video Games 14. Samsung: The Company formerly known as Samsuck 15. The Ministry of Future Creation --- MỞ ĐẦU Trước năm 1985, Hàn Quốc không hề cool. ... Tất nhiên, giờ đây, Hàn Quốc đã giàu có và có một tương lai rộng mở. Quá dễ để một ai đó quên mất rằng, vừa mới năm 1965, GDP của Hàn Quốc còn kém cả Ghana, thậm chí thấp hơn Bắc Triều Tiên. Ngay cả vào những năm 1970s, Bắc và Nam Triều Tiên vẫn còn đang chạy đua kiểu kẻ tám lạng, người nửa cân. Ngày nay, Hàn Quốc đã đứng thứ 15 trên thế giới về kinh tế và Seoul thì giống một thành phố công nghệ mà Arthur C. Clarke đã vẽ ra trong cuốn tiểu thuyết 2001: A Space Odyssey. Họ còn đang lên kế hoạch xây dựng một toà nhà chọc trời vô hình bằng cách sử dụng camera và đèn led để tạo ra hiệu ứng ảo ảnh khiến mọi người tưởng toà nhà không nằm ở đó. Mỗi toa tàu điện ngầm đều có hai máy phát wifi và người dân có thể xem chương trình ti vi buổi sáng trên chiếc Samsung Galaxy của họ, nhờ vào đường truyền internet cực cao không bao giờ bị nhiễu sóng cho dù đi qua đường hầm xuyên núi hay dưới nước. Hàn Quốc đang được cho là một trong những câu chuyện thần kỳ về kinh tế trong thời hiện đại. Điều mà hầu hết cả thế giới đều chưa biết - hay biết mà đã quên đi - là thời kỳ đau đớn giữa những ngày đói nghèo với những ngày giàu sang. Trong vòng chỉ một vài thập kỷ, Hàn Quốc đã trải qua nhiều sự thay đổi mà hầu hết một đất nước thịnh vượng nào cũng mất ít nhất vài trăm năm để đạt được: xã hội ngày càng cấp tiến như được trải qua cuộc cách mạng Pháp và kinh tế thay đổi như thể có được nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp. Cầu, nhà cao tầng và đường xa lộ như từ hư không hiện ra, nó gần giống như xem một đoạn video đứt quãng. Trong khi đó, mọi người cũng bắt đầu lớn tiếng đòi quyền lợi cho mình: phụ nữ, sinh viên, nhóm người mới giàu, nhóm quý tộc cũ, người lao động, viên chức cổ trắng. Đó là một thời điểm hỗn loạn và chối tai để sống ở Seoul, nhưng cũng đồng thời là một dấu mốc kỳ diệu. Một số người, trong đó có tôi, thậm chí còn có thể tự kiêu mà nói rằng họ nhìn thấy Rome được xây nên chỉ sau một ngày. Nhiều quốc gia khác đã đi từ những nghèo nàn rẻ rách đến sự giàu có trong thế kỷ trước. Tuy nhiên trong số ấy, chỉ có Hàn Quốc là dám tính toán để trở thành nước xuất khẩu văn hoá phổ thông (popular culture) hàng đầu thế giới. Phim truyền hình, nhạc, phim, trò chơi điện tử và đồ ăn nhanh Hàn Quốc đã kịp thống trị toàn bộ diện mạo văn hoá châu Á. Trên thực tế, họ đã trở thành người tạo xu hướng, kẻ quyết định thị hiếu cho châu Á trong hơn mười năm qua, và sự bành trướng sang các nước phương Tây của Hàn Quốc là khó thể chối cãi. Có thể bạn không nhận ra, nhưng đó là điều có thực. Ví dụ, nếu bạn dùng điện thoại iPhone, thì chính microchip của nó lại được sản xuất bởi đối thủ mạnh nhất của Apple - công ty điện tử Hàn Quốc Samsung. Làn sóng văn hoá phổ thông Hàn Quốc được gọi tên là “Hallyu”. Bạn nên nhớ lấy nó, bởi rồi đây bạn sẽ nhìn thấy nó rất nhiều. Tổng thống Mỹ Barrack Obama đã nhắc tới làn sóng này trong một chuyến viếng thăm Hàn Quốc vào tháng 3/2012 khi đề cập tới các đổi mới về văn hoá phổ thông và cải tiến kĩ thuật của quốc gia. Ông nói: “Không còn nghi ngờ gì nữa, rất nhiều người trên thế giới đã bắt nhịp với làn sóng Hàn Quốc - Hallyu”. Không hề là nói quá khi bảo rằng Hallyu là hệ hình văn hoá lớn và nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Làm thế nào mà Hàn Quốc có thể tiến lên nhanh như vậy? Vào năm 1994, khi Mỹ và Anh còn đang đấm đá, hò hét trong cuộc đấu tranh chống lại việc chuyển đổi từ TV analog sang truyền hình kỹ thuật số thì Hàn Quốc đã bận rộn thiết lập kết nối internet băng thông rộng trên toàn quốc từ ngân sách nhà nước, coi nó giống như những dự án xây dựng hệ thống đường cao tốc hay đường tàu quốc gia. Phương tiện truyền thông mới này đem đến cho Hàn Quốc tất cả những gì mà trước đây họ không có: tự do, đa ngôn ngữ, bỏ qua trật tự đẳng cấp tôn ti, không đóng hộp trong ba mặt nước biển và một mặt đất liền phía Bắc hung hăng toàn trị, và sẵn sàng chuẩn bị tinh thần cho các ấn phẩm không kiểm duyệt và rất có thể mang nhiều màu sắc nổi loạn. Cởi mở và phóng khoáng không phải là đức tính truyền đời của người Hàn Quốc: những nhà thám hiểm phương Tây từ thời thế kỷ 19 đã gọi vùng đất này là Vương quốc của những kẻ tu hành khổ hạnh. Tuy nhiên, thứ hấp dẫn quốc gia này không phải là những "kiện hàng" ngoại đó mà là điều quan trọng là Hàn Quốc sẽ đem thứ gì ra thế giới. Liệu lúc đó người Hàn Quốc có biết rằng Gangnam Style rồi sẽ trở thành bài hát đưa Hàn Quốc lên bản đồ thế giới? Tất nhiên là không. Nhưng họ biết ngày này rồi sẽ đến. Họ đã chuẩn bị và bố trí cả một cơ chế thống trị bằng văn hoá phổ thông kể từ thuở khai sinh của World Wide Web vào thập kỷ 1990s. Ai đó có thể đặt câu hỏi, vì sao lại tập trung vào văn hoá phổ thông khi mà lĩnh vực này gần như là lãnh địa của nước Mỹ suốt cả một thế kỷ qua. Bởi vì Hàn Quốc đang phát triển sức mạnh mềm của mình. “Sức mạnh mềm”, một thuật ngữ do Joseph Nye, một nhà khoa học chính trị Havard, đưa ra vào thập niên 1990s, là sức mạnh vô hình được xây dựng nên từ hình ảnh của một quốc gia thay vì từ vũ lực. Khác với sức mạnh cứng là tiềm lực quân đội hay áp đặt kinh tế, sức mạnh mềm là cách mà Hoa Kỳ đã từng sử dụng để thuyết phục cả thế giới mua thuốc lá Marlboro Reds hay quần bò Levi’s: bằng cách gieo rắc những hình ảnh đáng khao khát. Bằng cách gieo rắc sự cool của mình. Không phải công nghệ xe tăng Mỹ hay buổi biểu diễn cơ bắp hoành tráng chiếm đóng đảo Grenada khiến cho bọn trẻ ở vùng cộng sản Yugoslavia muốn dành dụm hai tháng tiền tiêu cho một cái quần bò Levi’s 501 ngoài chợ đen. Mà đó chính là [nam diễn viên] James Dean.[1] Giờ đây, Hàn Quốc đang muốn có được thứ dấu ấn văn hoá này - thậm chí là ở cả phương Tây - nhưng nó không phụ thuộc vào Gangnam Style hay K-pop. Tôi không nghĩ rằng người Hàn Quốc, nếu họ thực sự thành thật, tin rằng âm nhạc của họ sẽ thống lĩnh thị trường của Mỹ hay Tây Âu. Thay vào đó, kế hoạch là khiến cho thị trường thế giới thứ ba, dù vẫn còn ngái ngủ nhưng lại cực kỳ quan trọng như Đông Âu, các quốc gia Ả Rập và sắp tới là châu Phi, quắc câu vào văn hoá phổ thông Hàn Quốc. Cơn nghiện đã bắt đầu. Tại Iran, bộ phim truyền hình cổ trang Báu vật hoàng cung phổ biến tới nỗi người Iran bắt đầu sắp xếp giờ ăn của mình để không ảnh hưởng tới lịch phim phát sóng. Giờ đây, những nước thuộc thế giới thứ ba còn quá nghèo để nhận được sự quan tâm của các quốc gia phương Tây. Đây là nơi mà Hàn Quốc có đặc quyền và lợi thế duy nhất: không có một quốc gia thống trị văn hoá toàn cầu nào cũng từng là một nước thuộc thế giới thứ ba. Vì thế, Hàn Quốc hiểu rõ từng giai đoạn phát triển của những thị trường này; họ đã cẩn thận nghiên cứu văn hoá từng nơi để xác định rõ thể loại văn hoá Hàn Quốc nào sẽ được ưa chuộng nhất ở đó. Và các nhà kinh tế Hàn Quốc đã làm việc cật lực để đo đếm điểm rơi mà một quốc gia bắt đầu có tiền và tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá. Bạn có thể cá rằng một khi công dân các nước này có đủ khả năng mua điện thoại di động và máy giặt, họ sẽ mua các nhãn hiệu của Hàn Quốc. Vì sao? Bởi vì họ đã bị quắc cần câu vào thương hiệu Hàn Quốc từ trước đó rồi. Nếu điều này nghe hơi giống một chiến dịch quốc gia, thì đó là bởi nó thực sự là một chiến dịch như vậy. Chính phủ Hàn Quốc đã đặt làn sóng Hàn Quốc ở vị trí số một trong ưu tiên quốc gia. Hàn Quốc có rất nhiều kế hoạch năm năm, thứ mà các nước dân chủ và tư bản hầu như không nhìn thấy bao giờ. Chính phủ Hàn Quốc cho rằng việc truyền bá văn hoá Hàn Quốc trên toàn cầu phụ thuộc vào độ phủ sóng của Internet, vì thế Internet được nhà nước Hàn Quốc trợ cấp tới cả những hộ dân nghèo nhất, tới người già và nhóm khuyết tật. Gần đây, chính phủ cũng tiến hành lắp đặt hệ thống kết nối tốc độ 1Gb/giây cho tất cả hộ gia đình - cao hơn 200 lần so với tốc độ trung bình ở Mỹ. Hàn Quốc đã học được một bài học từ cuộc tái thiết sau cuộc chiến tranh với Bắc Triều Tiên (1950-1953) rằng nếu bạn định thay đổi thì cần phải thay đổi thật mạnh mẽ, thật nhanh và phải hướng đến tất cả mọi người. Email chẳng có giá trị gì nếu chỉ có một số người sở hữu nó. Và không phải chỉ có mỗi chính phủ Hàn Quốc mới có kế hoạch năm năm; các công ty tư nhân nước này cũng có. Một hãng thu âm Hàn Quốc sẽ dành năm tới bảy năm để chăm chút chuẩn bị cho một ngôi sao K-pop tương lai. Đây là lý do vì sao một số nghệ sỹ Hàn Quốc kí những bản giao kèo 13 năm ràng buộc họ thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nửa đầu dành cho đào tạo tập luyện, và công ty không thể thu lại được những gì họ bỏ ra trừ phi người nghệ sỹ tiếp tục phát triển sau thời kỳ trứng nước. Nền kinh tế Hàn Quốc là một nghịch lý: nó chắc chắn là nền kinh tế tư bản, tuy nhiên cùng lúc, theo một cách nào đó, lại vẫn là mô hình kinh tế mệnh lệnh. Từ những ngày đầu độc lập khỏi nhà cầm quyền Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ II, chính phủ Hàn Quốc đã can thiệp vào khu vực tư nhân. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống internet chất lượng cao, Hàn Quốc còn là một trong những nước có nguồn tiền chính phủ dồi dào đầu tư cho các nhóm khởi nghiệp (start-ups). Năm 2012, nguồn quỹ từ chính phủ chiếm 25% tổng vốn đầu tư ở Hàn Quốc. Một phần ba vốn đầu tư ở nước này dành cho ngành công nghiệp giải trí - nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Một kế hoạch năm năm khác là năm 2009. hi ngành công nghiệp thu âm Hàn Quốc bị sụt giảm doanh thu do hiện tượng download không bản quyền, chính phủ đã chi 91 tỷ USD để cứu lấy K-pop. Kế hoạch bao gồm xây dựng một trung tâm K-pop với rạp hát 3000 chỗ và chỉnh đốn các dịch vụ karaoke (noraebangs) để đảm bảo họ trả tiền bản quyền cho các bài hát trong hệ thống. Hầu hết các quốc gia khác sẽ không bao giờ chấp nhận dùng tiền công để thanh tra [bản quyền] các phòng karaoke. Ý tưởng nực cười này có lẽ chỉ có thể tồn tại ở Hàn Quốc. Hàn Quốc đã quyết định thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Hàn Quốc, giống như thế kỷ 20 là của nước Mỹ. Sẽ không bao giờ là đủ nếu Hàn Quốc chỉ sản xuất ô tô và dụng cụ bán dẫn, nó cần phải cool nữa. Tất nhiên, Hàn Quốc đang làm thay đổi quan niệm phổ biến cho rằng càng nỗ lực để cool chỉ làm bạn uncool mà thôi. Có lẽ người thể hiện rõ nhất được tham vọng và sự to gan lớn mật của Hàn Quốc là ông trùm âm nhạc Jin-young Park (giám đốc hãng thu âm JYP). Khi một nhà sản xuất âm nhạc phương Tây hỏi “Anh đến từ đâu?”, anh ta trả lời đầy khó hiểu: “Tôi đến từ tương lai”. CHÀO MỪNG TỚI HÀN QUỐC. CHÀO MỪNG TỚI TƯƠNG LAI." [1] James Byron Dean (1931 – 1955) là nam diễn viên người Mỹ, biểu tượng văn hoá của thanh thiếu niên nước này với những hình ảnh đập tan ảo mộng và sự ly gián xã hội. Một trong những bộ phim thể hiện rõ nhất tư tưởng này của James Dean là Rebel Without a Cause (1955). Thank to Dr. Masato Kajimoto and FPT University, a news literacy workshop focusing on the case of Umbrella Movement in Hong Kong has been successfully delivered on 8th November 2014. We have welcomed respectively 70 participants with various background including journalists, university lecturers, researchers and students.
BELOWS ARE FEW KEYNOTES & EXAMPLES EXCERPTED FROM DR. MASATO KAJIMOTO'S PRESENTATION
Updated on 26 Nov 2014 A group of Hanoi-based artists have transformed their creative space so their artistic dreams may continue. Story: My Bui | Photos: Nam Lu The closure of the artistic area in Hanoi known as Zone 9 earlier this year presented a shaky future for a number of creative enterprises such as Nha San Collectives, Consignista, Work Room Four, Enci Library, and others. Few have found a new home and finances to start over, while others have accepted that the end has come. The young people in Nha San Collectives are better placed to speak about this than others since it is not the first tome they have been downtrodden yet risen again. Located in Vinh Phuc Street for over a decade, Nha San was the first space for young people to experiment with their own creative efforts. Some of them including Truong Tan, Tran Luong, Phuong Linh and Phu Luc, have become significant artists in Vietnam’s contemporary art scene. For many reasons, however, the experimental art space was shut down in 2010. The younger generation of Nha San artists then moved to Zone 9, under the Nha San Collectives name. Unfortunately, after just six months, Nha San Collectives and other artists were forced to relocate following a few incidents. Several artists then teamed up with some new faces and started over in the place where they were born: Nha San Studio. They recently decided to transform the old Nha San into a café, after its 15 year-old birthday party in January. The multifunctional Nha San Studio is the mixture of a private art studio, an open creative hub, and a café. Romantic vs Realistic At first glance it may appear that the transformation of a private house and art studio into a café is simply a romantic notion. But their motivation was way more realistic and practical. “Nhà Sàn was a non profit - artist led art space for experimental art based at the private home of artist Nguyen Manh Duc”, said Phuong Linh, a creative leader at Nha San. “The original space was only half size of what it is now, but Manh Duc persuaded the neighbours to lease out their extensive land, which he has been renting out for the last 15 years. With the economy the way it is, we need to figure out other ways to keep the space going”. The good thing about opening a café at this spot is that there is no rent to pay and the facilities are already in place, with the group having used their own human and cultural capitals. Originally, Nha San was more popular among the artistic and creative community than the general public. Some came because they knew Manh Duc or Phuong Linh, whole others came for the experimental pieces of art or possibly for mere curiousity. This unintentionally created a boundary surrounding Nha San, which separated its space and people from the wider public and authorities. Manh Duc once address this by informing the goverment administration and inviting them to join the exhibitions. Nha San Collectives in Zone 9 has come slightly closer to the audience via social media. Now, at Nha San Café, they aim for a significant change. The private house has become a public space. The art studio is now integrated into a coffee shop open to anyone who is craving a cup of Vietnamese coffee and a view of contemporary Vietnamese art. As Lu, a young and stylish artist and also manager of Nha San Café said: “Most of the people who came to the cafe are young, and we hope that we can approach a wider audience here.” Nostalgia & The Art
Over the last few years, nostagia and eco-friendliness have become popular concepts at new coffeeshops in both Hanoi and HCMC. Owners favour decorating their space with replica antiques and eco-friendly materials such as old cassettes, table fans, typewriters, stained interiors, and others. Nha San Café has a nostalgic and natural feel but is totally different from others. While new coffeeshops work hard to adopt such a style, at Nha San Café it comes naturally. “When we open the coffee shop, we use all of the furniture that were always there, which belonged to Manh Duc,” said Phuong Linh “ So there was no need to buy any decorative items”. As some may known, Nha San’s owner is an antique collector and all the decorative items have been accumulated over many years. After 15 years as an art studio and occupied by all kinds of artists since 1994, the space has its own inimitable atmosphere. Khieu Anh, a 19-year-old Hanoian who is a frequent visitor to the café, spoke of its tranquility and greenery, which function as natural climate control during the summer. Its authentic nostalgia is one ò many things that makes Nha San Café stand out among other coffeeshops in town. The place is a regular venue for talks, seminars and musical performances regarding art and culture. Since the late 1990s Nha San Studio has held educational workshops and talks, such as Asian Window (Art Network Asia), Open Academy (in partnership with Goethe Institute) and others with international artists. These activities used to be small-scale and private until the opening of the Nha San Collective in Zone 9 and subsequently, Nha San Café. Phuong Linh, the creative leader of the group, said their ambition is to hold more discussions and seminars for the general public. While the reputation of the owners and available materials holds them in good stead, Nha San Café may have to work hard on broadening its audience, stimulating and encouraging the general public to engage in the artistic space, which hasn’t been the case in the past. For its nostalgic authenticity and cool people, though, Nha San Café is definitely a place worth checking out. “Taste classifies and it classifies the classifier”, Bourdieu 1984
Là một trong những nhà xã hội học và học giả đại chúng quan trọng của Pháp, Pierre Bourdieu nổi tiếng với các cuộc tranh luận chính trị đương thời cùng nhiều nghiên cứu kết hợp cả lý thuyết và thực hành về quyền lực tượng trưng, vốn văn hoá, vốn xã hội và sự thống trị của nam giới. Bourdieu cũng đặc biệt quan tâm đến tính xã hội của văn hoá nghệ thuật, một trong những cuốn sách quan trọng của ông về lĩnh vực này là Distinction: A Social Critique of the Judgment of Taste (1984), phân tích sự phân biệt thị hiếu/khiếu thẩm mỹ dựa vào nền tảng văn hoá, xã hội, xuất thân gia đình, … Trong khuôn khổ hạn hẹp, bài viết này sẽ đề cập sơ lược đến 1. thị hiếu, 2. phân biệt thị hiếu và phân tầng xã hội trong mối quan hệ với vốn kinh tế và vốn văn hoá. 1. Đầu tiên, về khái niệm thị hiếu, cả từ điển Bách khoa toàn thư khoa học xã hội và hành vi và Bourdieu trong Distinction đều mượn hai chữ differentiate và appreciate của Kant để định nghĩa: Thị hiếu là năng lực phân biệt và cảm thụ các tác phẩm văn hoá nghệ thuật cũng như các đánh giá về chúng (Bourdieu 1984: 466). Thị hiếu không phải một thuộc tính, cũng không phải tài sản tự nhiên của con người mà là một hệ thống hành vi được hình thành thông qua trải nghiệm. Bởi không một ai trên thế giới này có những trải nghiệm giống hệt nhau suốt cuộc đời nên thị hiếu là vô cùng đa dạng giữa các cá nhân, và giữa các nhóm người khác nhau. Thị hiếu của mỗi cá nhân là năng lực của anh ta để đánh giá xem cái gì xấu / đẹp, tốt / dở,… Bởi vậy, ở một chừng mực nào đó, thị hiếu khó tránh khỏi bị đánh giá trên tiêu chuẩn nhị phân (Jenkins 1992: 105). Câu hỏi đặt ra là thị hiếu nào được cho là tốt, thị hiếu nào được cho là dở? Trên lý thuyết, chúng ta có thể hoàn toàn tránh được câu hỏi này bằng cách dựa vào chủ nghĩa tương đối. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thị hiếu là một hệ hành vi, hành động dẫn tới những hiệu quả xã hội có thực, mỗi cá nhân với tư cách là một phần tử xã hội thông thường phải lựa chọn đánh giá thẩm mỹ nào là hay, thẩm mỹ nào là dở và đặt mình vào một “phe” thị hiếu. Theo quan điểm mỹ học của Kant, không có một chuẩn mực nào để đánh giá đâu là thị hiếu tốt, thị hiếu dở, không có chuyện thị hiếu được chuẩn hoá bằng một số đông hay một nhóm quyền lực nào trong xã hội. Theo Kant, thị hiếu tốt là có tồn tại, nhưng nó dựa trên những cảm xúc chủ quan không thể nào khái quát hoá được. Đứng từ một điểm nhìn khác - điểm nhìn xã hội học, Bourdieu trong Distinction lại cho rằng, thị hiếu và sự đánh giá về thị hiếu của chúng ta hiện nay được phân biệt dựa trên nguồn gốc tầng lớp xã hội của mỗi cá nhân. Ông phân tích, thứ thị hiếu được chúng ta công nhận chính là sản phẩm thị hiếu của tầng lớp thống trị. Nói một cách khác, khiếu thẩm mỹ của xã hội nói chung đã và đang bị chi phối bởi nhóm công dân tinh hoa cao cấp. 2. Cụ thể, kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Bourdieu trên 1,217 đối tượng đã chỉ ra rằng, thị hiếu được phân biệt dựa trên nguồn gốc xã hội và nền tảng văn hóa – giáo dục. Và chính sự phân biệt thị hiếu này đồng thời lại làm nảy sinh một sự phân tầng xã hội mới, dựa trên chuẩn đánh giá khiếu thẩm mỹ. Đây cũng chính là hai pha trong chu trình phân biệt thị hiếu và phân tầng xã hội đã được nhắc tới ngay từ đầu. Ở pha thứ nhất, nguồn gốc xã hội xác định thị hiếu cá nhân có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với những tiêu chuẩn trong xã hội mà người đó sống. Việc phân biệt thị hiếu này đồng thời cũng phân loại các cá nhân vào những tầng lớp khác nhau và làm rộng thêm khoảng cách giữa nhóm cao cấp, trung lưu và nhóm lao động bình dân. Theo Bourdieu (1984), khái niệm nguồn gốc xã hội này không chỉ dựa trên vốn kinh tế (economic capital), mà còn dựa vào nền tảng tri thức, vốn văn hoá (cultural capital) của gia đình nơi đứa trẻ sinh ra. Một ví dụ trong nghiên cứu của Bourdieu được đề cập đến là, trong trường học phổ thông, một học sinh có gia cảnh tốt thường nhận được những đánh giá tích cực hơn bởi khả năng tiếp thu kiến thức ưu trội, hoặc có thể nhắc đến sự khác nhau trong việc lựa chọn món ăn giữa nhóm học sinh nhà giàu, trung lưu và nhóm học sinh bình dân có mức sống thấp hơn. Những đứa trẻ nghèo hơn thường có xu hướng chọn khẩu phần ăn đầy đặn để no, trong khi những đứa trẻ giàu có lại chọn những món vừa đủ dinh dưỡng vừa kiểu cách hợp thời. Ví dụ về nhu cầu ăn uống cơ bản này của con người cũng chính là chỉ thị điển hình của việc phân tầng thị hiếu / xã hội bởi xu hướng tiêu dùng trong đó dường như cũng trùng khớp với vị trí của mỗi cá nhân trong xã hội mà anh ta thuộc về. Tóm lại, nguồn gốc xã hội là một yếu tố quan trọng quyết định vị trí thị hiếu của mỗi cá nhân (Bourdieu 1984: 184). Ở pha thứ hai, hiện tượng xã hội nói trên cũng đồng thời tạo điều kiện cho các nhóm có thị hiếu, căn tính và lối sống tương đồng hình thành các nhóm xã hội mới. Trong trường hợp này, thị hiếu được trưng hiện ra nhằm mục đích xác định xem ai giống mình thì được vào nhóm, ai khác mình thì bị đẩy ra ngoài. Văn hoá thị hiếu này đánh dấu một điểm quan trọng trong việc lựa chọn căn tính cá nhân và hình thành các lớp lang văn hoá. Sự phân biệt cá nhân rồi sẽ phát triển thành sự phân biệt nhóm, và cuối cùng hình thành các tầng lớp văn hoá xã hội, có thể ở giữa các thành phố, giữa các xã hội hay giữa các dân tộc khác nhau. 3. Không chỉ thể hiện ở văn hoá đời sống hàng ngày, sự phân tầng này còn thể hiện trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật cao cấp hơn. Trong biểu đồ nghiên cứu của Bourdieu, các số liệu cho thấy: nhóm trung lưu và nhóm cao cấp có tần suất đi bảo tàng, gallery nghệ thuật, thưởng thức mỹ thuật nhiều hơn hẳn so với nhóm lao động bình dân. Trong khi đó, các loại hình văn hoá đại chúng như điện ảnh thường thức, nhiếp ảnh, DIY lại chủ yếu nhận được sự ưa chuộng từ nhóm người lao động. Việc thị hiếu gắn với điều kiện kinh tế, văn hoá và tầng lớp xã hội vô hình chung khiến cho những loại hình nghệ thuật của giới tri thức tinh hoa như nhạc giao hưởng châu Âu, mỹ thuật trở thành trung tâm, chuẩn mực của thế giới. Một ví dụ điển hình của hiện tượng này là việc các phụ huynh trung lưu châu Á thường có xu hướng cho con cái đi học nhạc cụ cổ điển phương Tây (piano, guitar, violon) hơn là những nhạc cụ dân tộc, học vẽ sử dụng hoạ cụ phương Tây nhiều hơn là phương Đông. Trong văn hoá đại chúng và văn hoá tiêu dùng, điều này được tận dụng tương đối triệt để, tác động vào tâm lý hướng thượng của tầng lớp trung lưu (upper & lower middle class) cũng là nhóm dân số chiếm phần đông có tiềm năng tiêu dùng các sản phẩm văn hoá mạnh mẽ trong xã hội. Tài liệu tham khảo: Bourdieu, P. 1984. Distiction: A Social Critique of the Judgment of Taste. USA: Havard Bourdieu, P. 1991. The Love of Art: European art museum and their public. CA: University of Stanford Featherstone, M. 1991. Consumer Culture and Postmodernism. London: Sage Jenkins, R. 1992. Key Sociologist: Pierre Bourdieu. London: Routledge Hartley, J. 2002. Media and Cultural Studies: The Key Concepts. London: Routledge Hennion, A. 2007. Those things that hold us together: Taste and Sociology, in Cultural Sociology. London: Sage * Đăng trên Tạp chí Mỹ Thuật & Nhiếp Ảnh số ra tháng 11/2013 Cách đây không lâu trên Diễn Ngôn đăng tải bài viết “Khi báo chí tự tước bỏ quyền lực của mình” của tác giả Hoàng Hường. Trong đó, tác giả phê bình nền báo chí Việt Nam hiện nay kém nhanh nhạy, đuối hơi và chậm chạm. Đồng thời, tác giả cũng nhắc tới Myanmar như một ví dụ so sánh về thay đổi cơ chế quản lý báo chí, tạo ra nhiều sự thay đổi tích cực: "Nhìn sang một nước láng giềng: Myanmar đang thay đổi rất mạnh mẽ, một trong những điều thay đổi đó là việc đậy nắp bút của người kiểm duyệt báo chí vì “độc giả chính là người kiểm duyệt tốt nhất”.
Cổ vũ cho tự do báo chí, theo quan điểm cá nhân tôi, là một việc tất yếu nên làm để cung cấp những thông tin đa chiều nhất, gần với sự thật nhất cho công chúng. Tuy nhiên, có một vấn đề tồn tại là tự do không phải là một thuật ngữ đồng nhất được sử dụng giống nhau ở mọi nơi. Trên thế giới, không có một nền báo chí nào tự nhận mình là không tự do cả. Dù vậy, khái niệm này được mỗi quốc gia, mỗi nền chính trị diễn giải theo một cách khác nhau để phù hợp với học thuyết truyền thông mà mình lựa chọn. Trong các nhà nước độc đoán và toàn trị, báo chí được kiểm duyệt chặt chẽ và do nhà nước nắm giữ chủ yếu (thuyết độc đoán) hoặc hoàn toàn (thuyết toàn trị Xô Viết), hình thành nên cơ cấu độc quyền về thông tin. Tự do, theo họ là một nền báo chí nằm dưới sự bảo hộ (kiểm soát) của nhà nước, không phụ thuộc vào thị trường, và không bị chi phối bởi các giao dịch thương mại. Anh và Mỹ, nơi hai trăm năm nay nền báo chí được xây dựng trên cơ sở học thuyết tự do, tức là tách rời hoàn toàn với sự quản lý của nhà nước, là hai quốc gia có chung niềm tin với Milton rằng: “Bằng cách rèn luyện tư duy con người có thể phân biệt đúng – sai, tốt – xấu”nên “cần có sự tiếp cận không giới hạn tới ý tưởng và suy nghĩ của người khác”. Nói cách khác, lúc này báo chí được coi là “thị trường mở cho các ý tưởng”, và công chúng sẽ tự kiểm duyệt thông tin qua “quá trình tự cân bằng” của mỗi cá nhân. Đây chính là mô hình báo chí được tác giả Hoàng Hường nhắc đến trong bài viết nói trên. Ba mô hình quản lý báo chí dựa trên ba học thuyết truyền thông trên đây đã đặt ra vấn đề về “sự nguy hiểm của … tự do không giới hạn và sự nguy hiểm của việc quy định giới hạn cho nó”. Các học thuyết đều nhất trí cần có một giới hạn của sự tự do, nhưng tự do đến đâu thì chưa có một mô hình nào thể hiện được sự ưu việt. Theo tôi, sở dĩ còn tồn tại vấn đề đó là bởi vì mỗi mô hình lại đứng từ lập trường của một chủ thể nhận lợi ích trực tiếp từ mô hình mình chọn. Với thuyết độc đoán và toàn trị Xô Viết, chủ thể là nhà nước và chủ thể này sẽ thiết lập cơ cấu độc quyền thông tin dẫn tới kiểm soát về chính trị. Với thuyết tự do, chủ thể là các nhà xuất bản, các doanh nghiệp báo chí hoạt động dựa trên hệ thống tư bản. “Vấn đề kinh tế của truyền thông đại chúng chưa bao giờ được các nhà thuyết tự do đối diện trực tiếp”. Học thuyết này kiên quyết độc lập với nhà nước nhưng đồng thời lại khiến truyền thông đại chúng rơi vào một nhóm quyền lực khác: một nhóm nhà tư bản có tiềm lực kinh tế. Đây cũng chính là vấn đề còn tồn tại của “thị trường tự do” . Trong cuốn Bốn học thuyết truyền thông , tác giả Theodore Peterson có đề cập tới một học thuyết thứ tư, mà theo tôi là khả quan nhất để áp dụng cho công tác quản lý báo chí hiện nay ở Việt Nam: Thuyết Trách nhiệm xã hội. Theo đó, việc quản lý báo chí và truyền thông đại chúng được song song giám sát bởi chiếc kiềng gồm bốn chân: Nhà nước, Toà án, Người làm báo và Công chúng. Một điểm mấu chốt trong mô hình này là ngoài hoạt động báo chí cung cấp thông thường còn có một hoạt động khác gọi là “phê bình báo chí”. Công tác này được thực hiện trên nhiều “mặt trận”: trên chính các ấn phẩm sách, báo, trên toà án với nhiều vụ kiện liên quan tới việc lạm dụng thương mại hoặc độc quyền kinh tế, trên hiệp hội báo chí dựa trên các quy tắc về đạo đức và trách nhiệm cộng đồng của người làm báo. Với mô hình này, nền báo chí sẽ được phát triển tự do tới mức tối đa, tuy nhiên vẫn nằm trong khuôn khổ phục vụ cho xã hội, tránh được sự tập trung quyền lực vào bất cứ nhóm lợi ích cụ thể nào. Sự khác biệt cơ bản của mô hình quản lý này với mô hình “đậy nắp bút kiểm duyệt” mà tác giả Hoàng Hường nhắc tới là tính chất của sự tự do. Sự tự do ở học thuyết tự do là một hành vi “cố gắng giải thoát” tới độ cực đoan, được một số nhà lý luận gọi là tự do tiêu cực. Còn sự tự do - được cho là tích cực - ở học thuyết trách nhiệm xã hội là trao công cụ cần thiết cho người dân để họ đạt được tự do. Một ví dụ trực quan mà Theodore đưa ra để minh hoạ cho sự so sánh này là: “Tự do tiêu cực … là một tự do sáo rỗng nó giống như bảo một người rằng anh ta có thể tự do đi bộ mà không chắc chắn trước đó là anh ta có bị tàn tật hay không. Thực tế là tự do phải hiệu quả. Chỉ nói với một người là anh ta có quyền tự do giành lấy mục tiêu của mình là không đủ mà cần phải cung cấp cho anh ta những công cụ cần thiết để đạt được mục tiêu đó”. Nền báo chí Việt Nam hiện cần những công cụ gì? Người dân Việt Nam đang cần những công cụ gì? Tôi cho rằng ngoài việc giải toả cơ chế độc quyền nhà nước trong công tác kiểm duyệt và kiểm soát thông tin, nâng cao chất lượng báo chí và đạo đức người làm báo, chúng ta còn cần nâng cao năng lực và kích thích nhu cầu lên tiếng phê bình báo chí ở phạm vi đại chúng, coi đó như một quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân. * Đăng trên Diễn Ngôn ngày 03.12.2013 Produced by My Bui and Nihan Demirkaziksoy for a presentation on Globalization, Immigration and Workforce in Prof. Angela McRobbie's Public Culture and Everyday Life sessions.
Đăng trên trang của Trung tâm tư vấn và hỗ trợ đào tạo CASA, ĐH KHXH & NV
Cách đây không lâu báo online Đất Việt đăng tải một bài viết có tên “5 tấm bằng đại học ít sử dụng nhất ở Việt Nam”, điểm tên 5 ngành được cho là hiện đang khó xin việc, bị thất sủng trong thị trường lao động hiện tại: Vật lý, Công nghệ môi trường, Công tác xã hội, Lịch sử và Tâm lý học. Các đặc điểm chung của các ngành này được đưa ra là: nhu cầu xã hội và thị trường lao động không chào đón dẫn tới điểm đầu vào và tỉ lệ chọi thấp. Theo quan điểm cá nhân của người viết, bài nhận định trên có mấy điểm cần làm rõ lại như sau: Thứ nhất, nói về CẦU. Có phải chúng ta đang không cần những chuyên gia thuộc 5 lĩnh vực trên hay không? Có thực sự chúng ta đang “thất sủng” những ngành này? Bối cảnh Việt Nam hiện tại ghi nhận những cuộc cải cách công nghệ xanh, sử dụng công nghệ hoá sinh để xử lý chất thải và ô nhiễm môi trường. Bài viết trên Báo Đất Việt lý giải điều kiện kinh tế khó khăn dẫn tới việc hạn chế trong việc quan tâm tới các vấn đề ấy. Điều này có lẽ không sai nhưng trên thực tế là chưa đầy đủ. Dù Việt Nam đã được đưa vào nhóm các nước đang phát triển, nguồn tài trợ đầu tư của các quỹ quốc tế vào các ngành phát triển xanh, tăng trưởng bền vững vẫn còn không ít. Đó là còn chưa kể đến các tổ chức phi chính phủ, công ty tư vấn Việt Nam đang hoạt động tích cực trong lĩnh vực môi trường như: NGO&CC, AFEO, … Tình hình cũng tương tự như vậy với ngành công tác xã hội. Nếu điểm qua danh sách tuyển dụng trên trang www.ngo-centre.org.vn, ta sẽ nhận thấy phần lớn các vị trí chuyên gia là thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, sau đó đến công tác xã hội, giáo dục, … Đó là còn chưa kể đến các cơ quan bảo trợ xã hội của nhà nước, các doanh nghiệp xã hội có quan tâm tới sự phát triển bền vững của cộng đồng, … Thế thì vì sao sinh viên của chúng ta thuộc những ngành kể trên sau khi ra trường vẫn thất nghiệp? Để lý giải điều này cần bàn tới yếu tố thứ hai, CUNG. Trong các lĩnh vực được đề cập, cung hiện đang đủ hay thừa? Nếu chỉ xét về số lượng, sinh viên tốt nghiệp các ngành nghề trên ra trường có thể đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng. Tuy nhiên, vấn đề là sinh viên sau khi ra trường có đủ năng lực đáp ứng các vị trí trong những dự án tiềm năng này hay không? Sinh viên có ngoại ngữ, có kỹ năng mềm, có khả năng phát triển dự án, tính chuyên nghiệp để làm việc trong môi trường thực tế hay không? Chúng ta nên đưa ra sự lựa chọn nào cho sinh viên đây: Các em đừng học ngành này, khổ lắm, hay các em hãy học đi, và trau đồi thêm những kỹ năng bổ trợ, xác suất có việc làm và đóng góp cho xã hội sẽ nhiều hơn? Thứ ba, những dữ liệu sử dụng trong bài viết trên báo Đất Việt đều ở dạng phỏng đoán, con số không rõ ràng: khá nhiều, khá phổ biến, không ít, … và không có trích dẫn nguồn thống kê chính xác. Cách khai thác, đưa tin và đặt tít này có lẽ sẽ khiến một số lượng lớn sinh viên và cả các bậc phụ huynh hoang mang, từ bỏ những nguyện vọng, lựa chọn sẵn có. Nguy hiểm hơn, nó cổ suý cho một lối học tập, làm việc thụ động, phải nhìn thấy kết quả nhãn tiền thì mới bắt tay vào làm mà không có kế hoạch lâu dài, chiến lược. Trên thực tế, nhiều bạn trẻ theo học các ngành này đã chủ động lao động, thực hiện các dự án của riêng mình mà không nhất thiết phải phụ thuộc vào một cơ quan, đoàn thể nào. Bằng chứng là có một nhóm sinh viên đến từ nhiều trường khác nhau thuộc các ngành công tác xã hội, tâm lý đã tự viết ra dự án và được Isee tài trợ thực hiện thành công trong tháng 10/2013. Hoàng Ngân, một người trẻ sinh năm 1989 sau khi nỗ lực học tập ở Pháp về Tâm lý học về đã mở lớp dạy thêm về Phân tâm học cho một nhóm nhà báo. Mở ngoặc thêm là, đối với ngành báo chí, những kiến thức hiểu biết về tâm lý là tối quan trọng, không chỉ để khai thác nhân vật phỏng vấn mà còn để nắm bắt tâm lý công chúng. Một lần nữa, nhìn lại cái cách mà tâm lý đám đông đã chi phối cách định hướng nghề nghiệp của sinh viên thi vào ngành Tài chính – Ngân hàng trong những năm trước, gây ra sự thừa cung thiếu cầu như hiện nay, ta lại càng thấy cần những bài báo định hướng nghề nghiệp “có lương tâm” hơn, chứ không phải là những lời “phỏng đoán”. Trong một cuộc nói chuyện gần đây với sinh viên, giám đốc PR của công ty Le Bros đã đưa ra một lời khuyên chọn ngành nghề theo đuổi, đại ý là hãy nghĩ xem 10 năm nữa bạn là ai, xã hội khi ấy có cần đến những gì bạn có hay không. Việc tỉnh táo chọn nghề, bởi thế thể hiện rất rõ ràng khả năng tiếp cận, chọn lọc và phân tích thông tin, xu hướng của cá nhân. Tựu chung lại, thay vì đưa ra những phân tích phủ đầu học sinh, sinh viên và cả phụ huynh, gây ra những hoang mang trong lựa chọn ngành nghề như bài báo trên tờ Đất Việt, nên chăng chúng ta tập trung vào việc tư vấn cho các em cùng phụ huynh những hướng đi bền vững, những con đường chủ động để cả các cá nhân và xã hội cùng được phát triển tốt đẹp hơn?! http://soi.com.vn/?p=109230 Thực ra thì không phải chỉ dùng có mỗi đánh chữ, cặp sinh đôi gốc Rumani hiện đang sống ở Cologne, Đức này còn vẽ tranh, nặn tượng bằng đủ thứ chất liệu khác cộng lại: khắc gỗ, cắt dán, màu nước, chì, … Theo đúng chữ dùng trong catalogue của hai bạn ấy, chất liệu dùng chủ yếu là: multi mix. Về nội dung tranh, 90% tên tranh là Untitle – Vô đề. Thế đâm ra tiện, các bạn ý chẳng có giấy tờ gì chú thích ngoài tấm bảng giới thiệu chung bé tí về tiểu sử tác giả và chất liệu sử dụng. Còn đâu, tranh tượng cứ treo xếp khắp phòng, không đi kèm bất cứ chữ nghĩa nào hết. Trong bộ các tác phẩm đang được triển lãm ở White Chapel Gallery (Anh), một nửa Tobias dựng lên các hoạt cảnh “sặc mùi bạo lực”[1] với đầu ngắt khỏi thân, chân ngắt khỏi …, nửa còn lại là các sinh vật kỳ lạ tôi đoán được hai anh em nhà này bịa ra. Đặc điểm chung của tranh và tượng Tobias làm là trông rất gian, nhưng màu sắc lại đáng yêu tươi sáng. Nếu buộc phải dung một từ để miêu tả cảm giác của mình với tranh Tobias, tôi chọn từ “xinh”. Chúng làm sống dậy cả một tuổi thơ “dữ dội”, cái ngày mà những đứa trẻ con tiểu học suốt ngày nhỏ mực Thiên Long vào trang vở ô ly trắng tinh rồi gập đôi ở giữa cho mực loang tưa ra thành những hình thù quái gở, kỳ dị nhưng đáng yêu vô cùng. Một lý do nữa khiến tôi nghĩ nhiều đến trường tiểu học khi xem tranh Tobias là hai anh em nhà này có vẻ chuộng lưới ô vuông màu xanh bảng viết phấn và màu vàng đề can giấy thủ công. Ngoài ra hai bạn ấy còn thích xé dán rồi tô màu và vẽ thêm xung quanh nữa.
Nhân vật trong tranh của Tobias mang nhiều màu sắc totem, nhưng là totem què cụt, kiểu như vẽ phượng hoàng thì nó phải cụt đuôi cho chạy đi nẻo khác, hoặc là con ruồi thì nhất định đầu không được dính liền thân. Đặc biệt, xem triển lãm này không thể nào không nhớ đến phim Spirited Away [2]. Nhìn chung xem tranh của hai anh em Gert và Uwe Tobias rất xinh mắt dù bức nào cũng có hình hài vẹo vọ cụt đầu chặt chi. Có lẽ vì cách tạo hình đáng yêu và màu sắc tươi sáng. Hơn nữa, xem có cảm giác tranh động chữ không tĩnh, thi thoảng bướm bay lên bên dưới còn có một vạt khí màu hồng trên nền trời xanh bột. Nếu cứ theo như ba pha cảm thụ nghệ thuật của Laura Mark[3] đi từ cảm xúc, tri giác tới ý niệm thì tôi chịu không biết tác giả có ý niệm gì không và nếu có thì là gì? [1] Trong catalogue, yếu tố violence – bạo lực được nhắc đến như một trong những đặc trưng của hai anh em Gert và Uwe Tobias. [2] http://soi.com.vn/?p=107893 [3] http://soi.com.vn/?p=105231 |
buitramy.com ⓒ 2021
Archive
March 2024
|