![]() Bài: Ann Lee (Metro) Dịch: Trà My Đăng trên Soi ngày 29.04.2013 Quên đi nhé bỏng ngô với nước ngọt, đi xem phim bây giờ là phải lên facebook, twitter bình xét ngay về bộ phim mình vừa xem để tỏ cho thiên hạ rõ mình thấy phim hay phim dở thế nào. Mạng xã hội hiện nay trở thành một không gian hoàn hảo cho một chút khoe mồm sướng miệng về điện ảnh dù giải trí hay nghệ thuật mà chúng ta vừa mới bỏ tiền ra thưởng thức. Hầu như khán giả nào cũng trở thành một “nhà phê bình” phim thứ thiệt khi cố gắng diễn tả gọn ghẽ những gì mình vừa xem. Xu hướng này chẳng mấy chốc đã được các nhà làm phim để ý, lèo lái theo đường hướng có lợi cho mình: sử dụng quan điểm của những nhân vật bình thường đặt bên cạnh ý kiến của các nhà phê bình xuất chúng. Khi cơn bão Sự bất khả (The Impossible) đổ bộ vào tháng 1, tấm áp phích quảng cáo của phim này thậm chí còn sử dụng ý kiến của các khán giả bình thường đưa lên bên cạnh những nhà bình phim uy tín. Trong số đó có đoạn nhận xét là của một sinh viên ngành thời trang tên Katie Kelly như sau: “Phim hay và đáng xem, làm cho bạn nhận ra điều gì thực sự quan trọng trên đời”. Trên thực tế, chiều hướng nào đang thu hút khán giả? Họ muốn nhận những lời giới thiệu phim từ những khán giả đồng cấp hay từ “dân chuyên” dành cả một đến vài thập kỷ trong phòng tối xem hàng trăm bộ phim mỗi năm?! Barry Norman, nhà phê bình phim kỳ cựu 79 tuổi cực lực phản đối việc trầm trọng hoá các nhận xét về phim của công chúng trên mạng xã hội. “Ý kiến của mỗi cá nhân chỉ có giá trị đối với anh ta, chẳng có ảnh hưởng gì đến ai hết… Internet ở đó, có hàng triệu người post lên ý kiến của mình, bạn chả biết họ là ai, bao nhiêu tuổi, đã xem bao nhiêu phim. Nói thật tôi chẳng quan tâm tí nào đến những người đó, theo tôi họ không đáng tin”.
Norman đã có thâm niên 26 năm làm chủ show BBC’s Film, hàng tuần theo dõi đưa ra bình xét về thị trường phim và phỏng vấn nhân vật. Ông từng phỏng vấn Elizabeth Taylor, Brigitte Bardot, John Wayne, Tom Cruise, Michelle Pfeiffer, Al Pacino và Tom Hanks cùng nhiều người nổi tiếng khác. Barry đặc biệt thích lối phê bình của Philip French cho tờ The Observer và Roger Ebert của Chicago Sun-Times. Với Barry Norman, điều làm nên một nhà phê bình phim đúng nghĩa đơn giản là “Honesty” – chân thành. “Dù bạn có nói gì về bộ phim, đó phải thực sự là điều mà bạn tin tưởng”. Ông nói: “Có hai loại phê bình mà tôi thật tình chẳng bao giờ thèm để ý. Một là loại dùng phim để tự quảng cáo cho bản thân. Hai là loại đi đọc tất cả phê bình của người khác rồi chọn lấy cho mình chiều bình trái ngược ra vẻ ta đây thông minh hơn hết thảy”. Cả hai loại phê phim này, Norman đều cho là “bullshit” và nên mặc xác nó không cần quan tâm. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên kỹ thuật số, nơi mà mọi ấn phẩm đều sử dụng Twitter, Facebook làm phương tiện truyền thông nhanh chóng tức thời, liệu thời kỳ hoàng kim của các nhà phê bình phim đã đến ngày cùng tháng tận? “Tất nhiên ở Mỹ chuyện này có xảy ra. Tôi nghĩ nó thật là ‘man rợ’. Rất nhiều tờ báo của Mỹ đang bỏ dần mục bình phim để độc giả có thể theo dõi thông tin trên mạng. Tôi thấy sự thay thế này chẳng tốt chút nào”, Norman bày tỏ. Ông tin rằng, sự khác biệt giữa nhà phê bình chuyên nghiệp và những kẻ nghiệp dư hành nghề trên Facebook là ở chỗ: “Người bình chuyên nghiệp thì đã phải xem bao nhiêu là phim, hơn các bạn amateur rất nhiều. Có như thế người ta mới trang bị đầy đủ kiến thức, thế giới quan để mà đánh giá bộ phim mà họ xem”. Một nhà PR điện ảnh 35 năm thâm niên tên Charles McDonald cũng cho rằng không có chuyện Twitter hay Facebook sẽ làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của nghiệp phê bình chuyên nghiệp. Tuy nhiên, anh đồng ý, với sự tương tác và nhanh nhạy của mạng xã hội, việc kích thích đám đông, điều tiết một số chiều tác động vào bộ phim là hoàn toàn có thể có. McDonald nói, việc nhận xét về phim trên mạng xã hội có thể được coi như một trường phái phê bình khác, nơi mà các “nhà phê bình” tha hồ kiếm view từ việc bày tỏ quan điểm về bộ phim… Mới đây, ở trường tôi[1] các bạn sinh viên sau đại học có tổ chức một triển lãm mở nho nhỏ có tên là Flat 34 tại một trong số các khu ký túc xá sinh viên gần trường. Không gian triển lãm là một mặt bằng căn hộ có 5 phòng ngủ đơn, một hành lang tương đối dài, một phòng kỹ thuật nhỏ và một căn bếp sinh hoạt chung rộng rãi. Trên diện tích 90 mét vuông được xẻ nhỏ đó có 12 tác phẩm bao gồm ảnh, trình diễn thị giác, phim tài liệu, sắp đặt và tương tác đa phương tiện. Trong số những tác phẩm đó, tôi ấn tượng nhất là đoạn phim được chiếu trên màn hình máy tính xách tay 15in đặt trong phòng kỹ thuật tối om trống trải, chỉ có một cây lau nhà và mấy đường ống nước dựng đứng. Phim là phim câm, có nghĩa là có một vài tiếng động lạch cạch của máy quay, của băng chạy nhưng người thì im không nói. Trong phim, một cô gái trẻ mặc quần áo ở nhà ngồi bên máy giặt và lò nướng. Cảnh thì cô ngồi im lặng với mấy con cá chết ngắc ngứ xếp trên sàn bếp. Cảnh thì cô trải ra xếp sắp thứ vật liệu gì đó nhìn tương tự như cát và giả vờ làm động tác bơi. Sau đó , không hiểu thế nào mà đầu cô ấy chui tọt vào máy giặt, ngủ mơ trong đấy, đèn tóm tắt dần tối thui. Cuối cùng, cái ô tròn của máy giặt bỗng nhiên sáng bừng, cô gái đầu không thấy ở trong máy giặt nữa, lại bình thản ‘ngồi tựa mạn thuyền’, trên đầu lơ lửng mây bay, … Kể ra thì kể cho vui vậy, thật tình tôi không định nhận xét về các tác phẩm, bởi vì dù hay hay dở (mà có cái tôi cũng chẳng hiểu gì), thì tôi vẫn thấy cách tổ chức triển lãm như vậy rất hay. Hay bởi hai lẽ.
Một là, các bạn sinh viên tự nhiên lại có việc để làm. Một sự lao động nghiêm túc tử tế vì cái tôi và vì nghệ thuật (tôi đoán thế), chứ không mang chút xíu nào đong đếm tiền nong thương mại. Vì mới đây thôi tôi cũng là sinh viên ở Việt Nam nên vụ này rất là thấm thía. Hai là, đây là một trải nghiệm, một kinh nghiệm đời sống và nghệ thuật tuyệt vời cho người xem. Bởi các bạn sinh viên trưng bày tác phẩm trong chính các căn phòng nơi ngày ngày họ sinh hoạt, rất dễ để chúng tôi lẫn lộn coi tác phẩm là đồ cá nhân, vật dụng cá nhân là tác phẩm, dù các bạn đã có chú thích rất rõ ràng. Ví dụ như Anne, cô bạn người Hà Lan cho nghệ sĩ mượn bàn học để trưng bày một cuốn sách. Cuốn sách triển lãm tất nhiên có đính kèm cùng lời chú giải, tuy nhiên, trên giá sách ngay cạnh đó của cô còn nhiều cuốn khác nữa. Vậy thì, giới hạn của tác phẩm và của không gian triển lãm nằm ở đâu? Điều này kích thích trí tưởng tượng của chúng tôi vô cùng. Tôi ngờ rằng, trong lúc lục tìm tác phẩm bằng cách tự huyễn ý tưởng của chính mình vào các đồ vật, chúng tôi đã vô tình tạo ra những tác phẩm mới. Đây chẳng phải là cách kết nối, tương tác tuyệt vời hay sao? Không phải chỉ có tôi, mà cả những bạn khác khi trao đổi cũng đều bày tỏ rằng họ vô vùng bối rối khi đường đột bước vào phòng ngủ của một người khác, nhất lại là hoàn toàn xa lạ, có cảm giác như mình là kẻ phá bĩnh, là kẻ đang đi xâm chiếm không gian riêng tư của người khác. Ở một đất nước mà tính cá nhân và quyền riêng tư được coi nặng như ở Anh, cảm giác này thực sự rất nghiêm trọng. Vượt qua được bước “xâm lấn” đó, trong chúng tôi bỗng quên bẵng nó để bắt đầu trỗi dậy một đức tính hết sức con người khác, đó là TÒ MÒ. Xem xong tác phẩm (hoặc chưa xem xong / chưa thèm xem), chúng tôi nhất định phải ngó thêm lên giá sách, lên bàn học, giấy nhớ, lên giường, thậm chí toa lét của chủ nhân, trong đầu không khỏi hiện lên những đánh giá mà tôi không dám chắc là không có nhiều chủ quan, định kiến. Gọi là triển lãm sinh viên nhưng thật tình vì đều đang làm thạc sỹ hoặc tiến sỹ, nên các bạn cũng có ít nhiều kinh nghiệm thực tế. Có bạn còn triển lãm mấy quyển sách ảnh có tiếng đã được xuất bản. Thêm vào đó, vì trong ký túc xá các bạn đến từ nhiều nước khác nhau nên còn nấu rất nhiều món ngon để người xem thưởng thức với giá rẻ hoặc hứng lên thì miễn phí. Bởi vậy, tựu chung lại, dù có người khen người chê, tôi vẫn thấy triển lãm kiểu này hết sức là sinh viên, khả thi và “con người”. Vì còn ở với nhau đến hết năm học nên các bạn cũng có dự định tổ chức một số buổi như thế hàng tháng kéo dài tới mùa hè. Vậy nên, nếu có ai ở London muốn tới xem qua thì có thể tìm đường đi ở trang web này: www.flat34.org. Tiếc là các bạn ấy không đưa tác phẩm lên đây mà chỉ có giới thiệu chung sơ qua mà thôi. Bùi Trà My (http://soi.com.vn/?p=106283) --- [1] Goldsmiths College, University of London: www.gold.ac.uk Trường triết học nghệ thuật và mỹ học [1] phương Tây nhiều thế kỷ nay vẫn dành sự tôn thờ tuyệt đối cho hai năng lực cảm thụ từ xa là thị giác và thính giác. Lịch sử nghệ thuật ghi nhận các tác phẩm hội họa, điêu khắc, giao hưởng thính phòng, nhạc kịch,… đều đòi hỏi năng lực cảm và hiểu bằng hai giác quan đó. Cách đây nhiều năm, khi cảm thấy vô cùng bất lực trong việc dùng ngôn ngữ và hình ảnh để diễn đạt cái mà mình đang trải nghiệm (ví dụ như mùi hương ngai ngái mát lành của đám cây lá trước vườn nhà và mướt mát mơn trớn của cơn gió sớm luồn nhẹ vào tóc tai), tôi cũng bất chợt tự hỏi liệu có một phương tiện nào đủ khả năng ghi lại những cảm giác ấy của mình hay không? Cho tới gần đây, suy nghĩ đó lại quay trở lại khi tôi có cơ hội đọc và nghe Laura U. Marks nói về văn hóa đa giác quan.
Đa phương tiện, đa chiều là những thuật ngữ đã được nhắc nhiều thành quen trên truyền thông Việt Nam. Tuy nhiên, đa giác quan dù được chúng ta sử dụng 24/7 trong mọi hoạt động của đời sống lại chưa được mấy ai đề cập. Tương tự như vậy, các tác phẩm nghệ thuật kích thích năng lực thị giác, thính giác cũng đã được phổ cập tới tầm đại chúng, còn những giác quan khác như ngửi, nếm, chạm thì lại có phần hạn chế. Trong tiểu luận Thinking Multisensory Culture (2008) [2], Laura U. Marks đã đặt ra câu hỏi về sự bất bình đẳng trong trật tự giác quan này, trong cả lịch sử nghệ thuật, mỹ học, cũng như trong ngành nghiên cứu văn hóa-nghệ thuật đương đại. Trong khi chúng ta đang nỗ lực đại chúng hóa nghệ thuật và phá bỏ những rào cản mang tính giai cấp và khuôn mẫu thì việc tập trung sự chú ý vào nghệ thuật thị giác/thính giác lại vô hình chung tạo ra một kiểu phân hóa giai cấp khác. Đứng từ khía cạnh cảm thụ nghệ thuật, tác giả đề xuất tiếp cận một tác phẩm bằng nhiều loại giác quan, chứ không chỉ dựa vào năng lực nghe và thấy. Bà viết, ngoài việc được sử dụng như một loại hàng hóa trong xã hội tiêu dùng hiện đại, các trải nghiệm về mùi, vị, xúc giác vẫn chưa thực sự được đối xử một cách đúng đắn, như một kênh tri nhận và đánh giá. Trên thực tế, đứng giữa lằn ranh mong manh của sự khả tri và khả nhận, các giác quan gần gũi với đời sống hàng ngày này có thể là phương tiện hữu hiệu để truyền tải tri thức, cái đẹp, hay thậm chí là đạo đức tới công chúng. Để củng cố cho nhận định này, Laura U. Marks trong buổi thuyết trình tại Goldsmiths College đưa ra giả thuyết về quá trình cảm thụ nghệ thuật của con người gồm ba pha: AFFECT - PERCEPT - CONCEPT - Khi tiếp xúc với một tác phẩm, công chúng thoạt đầu phản ứng bằng những ấn tượng bề nổi, chính là thông qua các năng lực giác quan trời sinh. - Ở pha thứ hai, công chúng bắt đầu liên nối ấn tượng, cảm xúc ban đầu đó với những trải nghiệm cá nhân của bản thân, đây là thời điểm tri giác được hoạt động. - Tới pha cuối cùng, nền tảng học vấn của mỗi cá nhân sẽ liên hệ kết quả của pha tri giác với các khái niệm trừu tượng hơn và đi đến phân tích, thấu hiểu, tự phê bình tác phẩm. Quay trở lại với tính ứng dụng của các giác quan, bởi tính tương tác với cảm xúc và ký ức trong ba pha cảm thụ, một người sẽ hiểu được tác phẩm nhiều nhất nếu sử dụng tối đa giác quan. Bởi thế, một tác phẩm sẽ đạt được hiệu quả biểu đạt cao nhất nếu tác động tối đa tới mọi năng lực cảm giác của con người. Cách thức kỳ diệu này đã bắt đầu được áp dụng trong lĩnh vực giải trí qua loại hình phim 4D, 5D. Tôi hiện đang rất hồ hởi mong được thấy các tác phẩm đa giác quan của nghệ sỹ Việt Nam cũng như cách thức phê bình tác phẩm thông qua năng lực chạm, ngửi,…, trước là để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, sau là hy vọng tạo cung – đáp ứng cầu cho đại chúng. * Chú thích: [1]. Aesthetics. Thuật ngữ aesthetics được đưa vào lý thuyết triết học tương đối muộn, vào thế kỷ 18, bởi Baumgarten. Aesthetics sau đó được Lessing định nghĩa như một sự kết nối giữa nghệ thuật và các giác quan, tuy nhiên nhấn mạnh chỉ các giác quan bậc cao: thị giác và thính giác. [2]. Marks, L.U (2008). Thinking Multisensory Culture. Paragraph 31:2, ed Wilson, E. (07/2008): 123-137 * Về Laura U. Marks: Laura U. Marks (Ph.D) hiện đang giảng dạy bộ môn Art and Culture Studies ở trường Nghệ thuật đương đại thuộc Đại Học Simon Fraser. Bà đồng thời tham gia thỉnh giảng ở nhiều nơi và tham gia hoạt động giám tuyển, phê bình, nghiên cứu, biên tập trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật. Các tác phẩm xuất bản tiêu biểu: - Marks, L.U. (1999). The Skin of the Film: Intercultural Cinema, Embodiment, and the Senses. Duke University Press - Marks, L.U. (2002). Touch: Sensuous Theory and Multisensory Media. U.o.Minnesota Press - Marks, L.U. (2010). Enfoldment and Infinity: An Islamic Geneaology of New Media Art. MIT Press |
buitramy.com ⓒ 2021
Archive
March 2024
|